Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/ 2021. Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp năm 2012 nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về giám định tư pháp, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đồng thời thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác giám định tư pháp, bảo đảm đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng nói chung và trong giải quyết án tham nhũng, kinh tế nói riêng.
Sau đây là một số điểm mới cơ bản:
Một là, bổ sung quy định cấp thẻ giám định viên tư pháp: Người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp thì được cấp thẻ giám định viên tư pháp. Người có thẩm quyền bổ nhiệm thì có thẩm quyền cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp. Bộ Tư pháp sẽ ban hành thống nhất mẫu thẻ giám định viên tư pháp. Để khắc phục những bất cập trong quá trình thực hiện giám định tại cơ quan, tổ chức hoặc tham gia phiên tòa để giải thích, bảo vệ kết luận giám định do mình thực hiện, giám định viên cần chứng minh tư cách giám định viên tư pháp bằng cách xuất trình Quyết định bổ nhiệm, điều này gây bất tiện cho giám định viên tư pháp.
Hai là, thêm trường hợp bị miễn nhiệm giám định viên tư pháp: Tại Điều 10 Luật Giám định tư pháp 2012 quy định Giám định viên tư pháp bị miễn nhiệm nếu thuộc một trong các trường hợp: Không còn đủ tiêu chuẩn; Thuộc một trong các trường hợp (mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; bị xử lý kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên hoặc bị xử phạt hành chính do cố ý vi phạm quy định của pháp luật về giám định tư pháp; thực hiện một trong các hành vi bị cấm;
Nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã sửa đổi, bổ sung thêm một số trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp:
Có quyết định nghỉ hưu hoặc quyết định thôi việc, trừ trường hợp có văn bản thể hiện nguyện vọng tiếp tục tham gia hoạt động giám định tư pháp và cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp có nhu cầu sử dụng phù hợp với quy định của pháp luật;
Chuyển đổi vị trí công tác hoặc chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà không còn điều kiện phù hợp để tiếp tục thực hiện giám định tư pháp;
Theo đề nghị của giám định viên tư pháp. Trường hợp giám định viên tư pháp là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thì phải được sự chấp thuận của cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp;
Giám định viên tư pháp được bổ nhiệm để thành lập Văn phòng giám định tư pháp nhưng sau thời hạn 01 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm không thành lập Văn phòng hoặc sau thời hạn 01 năm, kể từ ngày có quyết định cho phép thành lập Văn phòng mà không đăng ký hoạt động.
Ba là, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao được giám định âm thanh, hình ảnh: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã đã bổ sung Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao là tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự. Đồng thời, bổ sung chức năng giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử cho đơn vị này .
Bốn là, sửa đổi thời gian mở Văn phòng giám định tư pháp: Nếu Luật Giám định tư pháp năm 2012 quy định giám định viên tư pháp được thành lập Văn phòng giám định tư pháp khi có từ đủ 05 năm trở lên là giám định viên tư pháp trong lĩnh vực đề nghị thành lập Văn phòng; thì, từ ngày 01/01/2021 khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp có hiệu lực, việc thành lập Văn phòng giám định tư pháp sẽ được nới lỏng điều kiện, đó là giiám định viên tư pháp cần có từ đủ 03 năm trở lên là giám định viên tư pháp và có hoạt động giám định trong lĩnh vực đề nghị thành lập Văn phòng
Năm là, thời hạn giám định tư pháp tối đa không quá 04 tháng: Đây là quy định mới được bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp 2012, theo đó, thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp không thuộc giám định bắt buộc về tố tụng hình sự tối đa là 03 tháng. Trường hợp vụ việc giám định có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn thì tối đa là 04 tháng.
Sáu là, Giám định viên được bố trí chỗ ngồi phù hợp tại tòa: Theo đó, người giám định tư pháp có quyền được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa. Đồng thời, bổ sung thêm quyền: Đề nghị người trưng cầu giám định hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân mình hoặc người thân thích; từ chối thực hiện giám định tư pháp trong trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định không phù hợp với phạm vi chuyên môn hoặc không có đủ năng lực, điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định; đối tượng giám định, tài liệu liên quan được cung cấp không đầy đủ…/.
BBT
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.pdf