Theo đó, Luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng được chi trả là 0,4 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định đối với 01 ngày làm việc (08 giờ). Thời gian làm việc của Luật sư được tính bao gồm: Thời gian gặp người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; Thời gian thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; Thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại cơ quan tiến hành tố tụng; Thời gian tham gia phiên tòa; Thời gian hợp lý khác theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng để thực hiện việc tham gia tố tụng.
Trường hợp Luật sư làm việc ngoài giờ hành chính, ngày nghỉ, ngày lễ thì thời gian làm việc được tính mức theo nguyên tắc chi trả tiền lương làm việc vào ban đêm, làm thêm giờ đối với cán bộ, công chức, viên chức theo 3 mức 150% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày thường; 200% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày nghỉ hàng tuần và 300% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ bù nếu ngày nghỉ lễ trùng vào ngày nghỉ hàng tuần.
Trong quá trình chuẩn bị và tham gia bào chữa tại phiên toà, nếu luật sư phải đi công tác thì được thanh toán công tác phí theo quy định hiện hành về chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác trong nước theo mức chi áp dụng đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo. Ngoài thù lao và các khoản chi phí trên, luật sư không được đòi hỏi thêm bất cứ khoản tiền, lợi ích nào khác từ người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc thân nhân của họ.
Cũng theo Thông tư liên tịch này, thời hạn thanh toán thù lao và các khoản chi phí khác liên quan cho luật sư là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ đề nghị thanh toán. Thông tư liên tịch có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2015, thay thế Thông tư liên tịch số 66/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 19/6/2007. Chế độ thù lao này được áp dụng từ ngày 28 tháng 11 năm 2013.
Thu Huyền