1. Chị A chung sống với anh T nhưng không đăng ký kết hôn. Do mâu thuẫn nên T bỏ di và không biết rằng A có thai với T. Sau khi sinh được một bé gái, chị A làm thủ tục khai sinh cho con, chị cho đứa bé mang họ mẹ và trong giấy khai sinh của cháu không có tên người cha. Gần đây, T biết chị A sinh con, qua tìm hiểu biết đó là con mình nên T đã quay lại xin nhận con, hàn gắn mối quan hệ trước đây. Chị A đồng ý cho anh T nhận con gái. Tuy nhiên, chị A băn khoăn không biết chị có thể bổ sung tên T là cha vào giấy khai sinh của đưa bé không? Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết việc này?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng được xác định là cha, mẹ của con.
Do đó, nếu anh T muốn nhận con thì anh chị có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền ghi bổ sung tên người cha vào giấy khai sinh của cháu. Tuy nhiên, trước khi ghi bổ sung tên cha vào giấy khai sinh của con, anh T cần phải làm thủ tục đăng ký việc nhận cha cho con.
Tại Điều 19 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định về đăng ký nhận cha, mẹ, con như sau:
– Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú tại địa bàn xã đó với công dân của nước láng giềng thường trú tại đơn vị hành chính tương đương cấp xã của Việt Nam, tiếp giáp với xã ở khu vực biên giới của Việt Nam nơi công dân Việt Nam thường trú.
– Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con xuất trình bản chính một trong các giấy tờ là hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng (sau đây gọi là giấy tờ tùy thân) để chứng minh về nhân thân và trực tiếp nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân xã; hồ sơ đăng ký nhận cha, mẹ, con gồm các giấy tờ sau đây:
+ Tờ khai nhận cha, mẹ, con theo mẫu quy định;
+ Giấy tờ, tài liệu chứng minh quan hệ cha – con hoặc quan hệ mẹ – con;
+ Bản sao giấy tờ chứng minh nhân thân, chứng minh nơi thường trú ở khu vực biên giới của công dân nước láng giềng.
– Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra hồ sơ, niêm yết việc nhận cha, mẹ, con tại trụ sở Ủy ban nhân dân và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã quyết định. Trường hợp phải xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 12 ngày làm việc.
– Nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung vào Sổ hộ tịch, cùng người có yêu cầu ký, ghi rõ họ tên vào Sổ hộ tịch; Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ký cấp cho mỗi bên 01 bản chính trích lục hộ tịch.
Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh cho người con sẽ căn cứ Quyết định này để ghi bổ sung phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con.
Như vậy, để bổ sung tên anh T trong giấy khai sinh cho con, thì trước tiên anh T, chị A phải làm thủ tục đăng ký việc nhận cha cho con. Sau khi có quyết định công nhận việc nhận cha, con, UBND cấp xã, nơi chị A đã đăng ký khai sinh cho con sẽ ghi bổ sung phần khai về cha trong sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của con.
2. Anh A quê ở tỉnh HN, là công nhân nhà máy X. Chị B hiện là giáo viên mầm non tại phường X, quận Y, thành phố Hà Nội. Qua bạn bè giới thiệu, anh chị nên duyên vợ chồng. Tuy nhiên, do điều kiện chưa cho phép, nên vợ chồng chị hộ khẩu mỗi người mỗi nơi (chị B có hộ khẩu tại thành phố Hà Nội, anh A có hộ khẩu tại tỉnh HN). Để thuận tiện cho việc ông bà nội chăm sóc, chị B về quê chồng tại tỉnh HN để sinh bé. Sau khi sinh con, anh A ra xã nơi cư trú của mình làm khai sinh nhưng bị từ chối và được hướng dẫn đến nơi chị B đăng ký hộ khẩu. Hỏi, việc làm trên của cán bộ tư pháp xã có đúng không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 13 Luật hộ tịch năm 2014 thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ thực hiện đăng ký khai sinh. Luật không quy định bắt buộc việc đăng ký khai sinh cho con theo mẹ như trước đây. Do vậy, việc từ chối đăng ký khai sinh của công chức tư pháp trong trường hợp này là không đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp của anh A, chị B có thể căn cứ quy định tại Điều 16 Luật hộ tịch để thực hiện đăng ký khai sinh cho con, cụ thể thủ tục đăng ký khai sinh được thực hiện qua các bước như sau:
Bước 1. Người đi đăng ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp không có giấy chứng sinh thì nộp văn bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu không có người làm chứng thì phải có giấy cam đoan về việc sinh; trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có biên bản xác nhận việc trẻ bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập; trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai hộ theo quy định pháp luật.
Bước 2. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định nêu trên, nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai sinh gồm: a) Thông tin của người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và tên; giới tính; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; quê quán; dân tộc; quốc tịch; b) Thông tin của cha, mẹ người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và tên; năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú; c) Số định danh cá nhân của người được đăng ký khai sinh vào Sổ hộ tịch; cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân.
Công chức tư pháp - hộ tịch và người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.
3. Trước đây, khi đăng ký khai sinh, anh T đặt tên cho con là Phạm Nguyệt Lan. Khi con được 6 tháng tuổi, vợ chồng anh T cho con về quê nội thăm ông bà, họ hàng. Tuy nhiên, khi nghe tên đầy đủ của cháu, thì thấy trùng tên của bà cô tổ trong họ nên ông nội cháu yêu cầu phải đổi tên cho cháu, tránh phạm húy tới các bậc tiền bối. Trong trường hợp này, vợ chồng anh T có thể thay đổi tên cho con được không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 28 BLDS năm 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi tên trong trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
d) Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
đ) Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi;
e) Thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính;
g) Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
Việc thay đổi tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
Việc thay đổi tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo tên cũ.
Căn cứ vào quy định trên của pháp luật, thì với tư cách là cha mẹ đẻ của cháu bé (hiện cháu dưới 9 tuổi), vợ chồng anh chị có quyền được thay đổi tên cho con.
4. Một buổi sáng, chị H khi mở cổng đi tập thể dục buổi sáng phát hiện một chiếc làn đặt trước cổng, bên trong có 1 bé trai sơ sinh khoảng hơn 1 tháng tuổi, bên cạnh có mấy bộ đồ trẻ sơ sinh và không có giấy tờ gì khác. Thấy cháu có vẻ bị đói, chị H đưa cháu vào nhà, nhờ chồng ra cửa hàng tạp hóa mua sữa bột về pha cho cháu uống, rồi ra báo chính quyền địa phương sự việc. Thấy thương cho cháu bé, trong khi chị lại có điều kiện nên chị đề nghị trong thời gian đợi làm các thủ tục cần thiết, được chăm sóc cháu. Vậy, trong thời gian chăm sóc cháu bé, chị H có phải làm thủ tục đăng ký khai sinh cho cháu không?
Trả lời:
Quyền được khai sinh và có quốc tịch là một trong những quyền quan trọng của trẻ em ngay từ khi sinh ra và được quy định trong các văn bản pháp luật của nước ta. Đăng ký khai sinh cho trẻ em không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.
Tại Điều 14 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định về đăng ký khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi như sau:
1. Người phát hiện trẻ bị bỏ rơi có trách nhiệm bảo vệ trẻ và thông báo ngay cho Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã nơi trẻ bị bỏ rơi. Trường hợp trẻ bị bỏ rơi tại cơ sở y tế thì Thủ trưởng cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo.
Ngay sau khi nhận được thông báo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Trưởng công an cấp xã có trách nhiệm tổ chức lập biên bản về việc trẻ bị bỏ rơi; Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giao trẻ cho cá nhân hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng theo quy định pháp luật.
Biên bản phải ghi rõ thời gian, địa điểm phát hiện trẻ bị bỏ rơi; đặc điểm nhận dạng như giới tính, thể trạng, tình trạng sức khỏe; tài sản hoặc đồ vật khác của trẻ, nếu có; họ, tên, giấy tờ chứng minh nhân thân, nơi cư trú của người phát hiện trẻ bị bỏ rơi. Biên bản phải được người lập, người phát hiện trẻ bị bỏ rơi, người làm chứng (nếu có) ký tên và đóng dấu xác nhận của cơ quan lập.
Biên bản được lập thành hai bản, một bản lưu tại cơ quan lập, một bản giao cá nhân hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ.
2. Sau khi lập biên bản theo quy định tại Khoản 1 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân trong 7 ngày liên tục về việc trẻ bị bỏ rơi.
3. Hết thời hạn niêm yết, nếu không có thông tin về cha, mẹ đẻ của trẻ, Ủy ban nhân dân cấp xã thông báo cho cá nhân hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ để tiến hành đăng ký khai sinh cho trẻ. Cá nhân hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em. Thủ tục đăng ký khai sinh được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật Hộ tịch.
Họ, chữ đệm, tên của trẻ được xác định theo quy định của pháp luật dân sự. Nếu không có cơ sở để xác định ngày, tháng, năm sinh và nơi sinh của trẻ thì lấy ngày, tháng phát hiện trẻ bị bỏ rơi là ngày, tháng sinh; căn cứ thể trạng của trẻ để xác định năm sinh; nơi sinh là nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi; quê quán được xác định theo nơi sinh; quốc tịch của trẻ là quốc tịch Việt Nam. Phần khai về cha, mẹ và dân tộc của trẻ trong Giấy khai sinh và Sổ hộ tịch để trống; trong Sổ hộ tịch ghi rõ “Trẻ bị bỏ rơi”.
Căn cứ vào quy định trên của pháp luật, chị H sẽ tiến hành đăng ký khai sinh cho trẻ khi được Ủy ban nhân dân cấp xã thông báo.
5. Sau gần 15 năm xa quê lập nghiệp và đã chuyển hộ khẩu vào một tỉnh ở phía Nam, đến nay anh B mới ra Bắc thăm quê. Chẳng may, ngày 02/6/2016, anh B mất trong một vụ tai nạn giao thông khi đang điều khiển xe máy từ nhà bố mẹ đẻ sang bên nhà một người chú ruột. Vậy xin hỏi, trường hợp của anh B phải đăng ký khai tử ở đâu? Trình tự, thủ tục thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh và khi chết phải được khai tử. Đăng ký khai tử là một thủ tục hành chính pháp lý nhằm thông báo với chính quyền địa phương khi có người thân qua đời. Trong trường hợp này, việc đăng ký khai tử cho anh B được thực hiện như sau:
a. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký khai tử: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện việc đăng ký khai tử. Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người chết thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó chết hoặc nơi phát hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
b. Thủ tục đăng ký khai tử
- Người có trách nhiệm đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định và Giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
- Ngay sau khi nhận giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc khai tử đúng thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai tử vào Sổ hộ tịch, cùng người đi khai tử ký tên vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người đi khai tử.
Công chức tư pháp - hộ tịch khóa thông tin hộ tịch của người chết trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
c. Nội dung đăng ký khai tử được xác định theo Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay Giấy báo tử do cơ quan có thẩm quyền sau đây cấp:
- Đối với người chết tại cơ sở y tế thì Thủ trưởng cơ sở y tế cấp Giấy báo tử;
- Đối với người chết do thi hành án tử hình thì Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình cấp giấy xác nhận việc thi hành án tử hình thay Giấy báo tử;
- Đối với người bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì Bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thay Giấy báo tử;
- Đối với người chết trên phương tiện giao thông, chết do tai nạn, bị giết, chết đột ngột hoặc chết có nghi vấn thì văn bản xác nhận của cơ quan công an hoặc kết quả giám định của Cơ quan giám định pháp y thay Giấy báo tử;
- Đối với người chết không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d của Khoản này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó chết có trách nhiệm cấp Giấy báo tử.
6. Theo quyết định cho ly hôn của tòa án, chị C được quyền nuôi con là cháu Hoàng Minh (cháu mới hơn 10 tuổi). Do có những mâu thuẫn sâu sắc trong quá trình chung sống, cũng như anh K là người có nhiều tiền án, tiền sự nên chị C muốn đổi họ của con theo họ của chị. Vậy chị C có quyền được đổi họ cho con không?
Trả lời:
“Họ” là một phần trong tên gọi đầy đủ của một người để chỉ ra rằng người đó thuộc về dòng họ nào. Có họ, tên là quyền của mỗi cá nhân. Theo quy định tại Điều 27 BLDS 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp sau đây:
a) Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại;
b) Thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi;
c) Khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ cho người đó theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ;
d) Thay đổi họ cho con theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc của con khi xác định cha, mẹ cho con;
đ) Thay đổi họ của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
e) Thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi;
g) Thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi họ;
h) Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
Việc thay đổi họ cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
Việc thay đổi họ của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ cũ.
Căn cứ vào quy định trên của pháp luật, thì chị C có thể đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi họ cho con.
Theo quy định tại Điều 27 Luật hộ tịch thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi.
Thủ tục đăng ký thay đổi hộ tịch gồm các bước sau:
1. Người yêu cầu đăng ký thay đổi hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tnêu trên, nếu thấy việc thay đổi hộ tịch là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay đổi hộ tịch ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.
Trường hợp thay đổi hộ tịch liên quan đến Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi, cải chính hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.
Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
3. Trường hợp đăng ký thay đổi hộ tịch không phải tại nơi đăng ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký hộ tịch trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch.
Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.
Do vậy, chị C có thể tham khảo quy định pháp luật nêu trên để thực hiện thay đổi họ cho con.
7. Vừa qua, nhà chị H không may sảy ra hỏa hoạn, mọi đồ đạc, giấy tờ trong gia đình đều bị ngọn lửa thiêu rụi. Sắp tới đây, để thuận tiện cho việc đón đưa con, chị H định xin học trái tuyến cho con gần với nơi làm việc của mình. Tuy nhiên, trường học nơi chị định xin học cho con yêu cầu phải xuất trình bản chính giấy khai sinh để đối chiếu. Chính vì vậy, chị đã đến UBND xã đề nghị cấp lại bản chính Giấy khai sinh nhưng công chức Tư pháp hộ tịch xã từ chối cấp và hướng dẫn chị lên Phòng tư pháp huyện để làm thủ tục cấp lại. Xin hỏi, việc làm của cán bộ tư pháp - hộ tịch có đúng quy định hay không?
Trả lời:
Việc làm của cán bộ tư pháp - hộ tịch là không đúng quy định pháp luật vì theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 1/1/2016 nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại.
Cũng tại Điều 26 quy định thủ tục đăng ký lại khai sinh như sau:
“1. Hồ sơ đăng ký lại khai sinh gồm các giấy tờ sau đây:
a) Tờ khai theo mẫu quy định, trong đó có cam đoan của người yêu cầu về việc đã đăng ký khai sinh nhưng người đó không lưu giữ được bản chính Giấy khai sinh;
b) Bản sao toàn bộ hồ sơ, giấy tờ của người yêu cầu hoặc hồ sơ, giấy tờ, tài liệu khác trong đó có các thông tin liên quan đến nội dung khai sinh của người đó;
c) Trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh là cán bộ, công chức, viên chức, người đang công tác trong lực lượng vũ trang thì ngoài các giấy tờ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này phải có văn bản xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị về việc những nội dung khai sinh của người đó gồm họ, chữ đệm, tên; giới tính; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha - con, mẹ - con phù hợp với hồ sơ do cơ quan, đơn vị đang quản lý.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh hồ sơ. Nếu việc đăng ký lại khai sinh là đúng theo quy định của pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký lại khai sinh như trình tự quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật Hộ tịch.
Nếu việc đăng ký lại khai sinh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã không phải là nơi đã đăng ký khai sinh trước đây thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân nơi đăng ký khai sinh trước đây kiểm tra, xác minh về việc lưu giữ sổ hộ tịch tại địa phương.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký khai sinh trước đây tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản về việc còn lưu giữ hoặc không lưu giữ được sổ hộ tịch.
3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh về việc không còn lưu giữ được sổ hộ tịch tại nơi đã đăng ký khai sinh, nếu thấy hồ sơ đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện việc đăng ký lại khai sinh như quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật Hộ tịch.
4. Trường hợp người yêu cầu có bản sao Giấy khai sinh trước đây được cấp hợp lệ thì nội dung đăng ký khai sinh được ghi theo nội dung bản sao Giấy khai sinh; phần khai về cha, mẹ được ghi theo thời điểm đăng ký lại khai sinh.
5. Trường hợp người yêu cầu không có bản sao Giấy khai sinh nhưng hồ sơ, giấy tờ cá nhân có sự thống nhất về nội dung khai sinh thì đăng ký lại theo nội dung đó. Nếu hồ sơ, giấy tờ không thống nhất về nội dung khai sinh thì nội dung khai sinh được xác định theo hồ sơ, giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chính thức hợp lệ đầu tiên; riêng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người đang công tác trong lực lượng vũ trang thì nội dung khai sinh được xác định theo văn bản của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều này.”
Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan có thẩm quyền đăng ký lại khai sinh, công chức tư pháp hộ tịch cần căn cứ quy định nêu trên để thực hiện các thủ tục cần thiết đăng ký khai sinh lại cho con chị H.
8. Anh A là dân tộc Mường, nguyên quán tại huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa; còn chị B là người dân tộc Kinh, nguyên quán tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn với nhau, anh chị về sinh sống tại quê hương của chị B là tỉnh Hải Dương. Các con anh chị sinh ra lấy dân tộc và nguyên quán theo bố. Nay, con trai anh A là cháu X, 22 tuổi muốn cải chỉnh lại dân tộc theo mẹ thì có được không? Cơ quan nào có thẩm quyền xác định lại dân tộc?
Trả lời:
Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ.
Theo quy định của pháp luật thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây:
a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình (khoản 3 Điều 29 BLDS 2015).
Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó.
Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam.
Do đó, nếu việc xác định dân tộc của anh X không vì lý do nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam thì anh có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác định lại dân tộc cho mình.
Cũng theo quy định tại khoản Điều 46 thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của anh X.
9. Tôi và vợ hiện là công nhân một nhà máy ở tỉnh Bình Dương. Vừa qua, vợ tôi sinh em bé. Tuy nhiên, hộ khẩu của cả hai vợ chồng hiện vẫn đang ở ngoài Bắc. Do điều kiện ở xa, đi lại tốn kém cũng như để thuận tiện khi nhập hộ khẩu cho cháu nên tôi muốn ủy quyền cho bố tôi ở quê thực hiện đăng ký khai sinh cho con tôi thì có được không? Trình tự, thực hiện ủy quyền đăng ký hộ tịch được quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 15/2015/TT-BTP thì bạn có thể ủy quyền cho bố bạn ở quê thực hiện đăng ký khai sinh cho con bạn.
Trình tự, thực hiện ủy quyền đăng ký hộ tịch được tiến hành như sau: Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật; phạm vi uỷ quyền có thể gồm toàn bộ công việc theo trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch từ khi nộp hồ sơ đến khi nhận kết quả đăng ký hộ tịch.
Trường hợp người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền thì văn bản ủy quyền không phải công chứng, chứng thực, nhưng phải có giấy tờ chứng minh mối quan hệ với người uỷ quyền.
10. Không biết do cha mẹ tôi khai sai hay do cán bộ tư pháp hộ tịch ghi nhầm nên trong Giấy khai sinh của tôi tên của mẹ tôi là Ngọc Anh bị ghi thành Ngọc Oanh. Nay tôi muốn đăng ký người phụ thuộc là mẹ tôi để làm thủ tục khấu trừ gia cảnh nộp thuế thu nhập cao nhưng không được vì không đúng tên người phụ thuộc. Vậy xin hỏi, tôi có thể đề nghị sửa lại tên cha mẹ mình trong giấy khai sinh không? Nếu được thì trình tự, thủ tục được quy định như thế nào?
Trả lời:
Thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của pháp luật dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật. Còn Cải chính hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân trong trường hợp có sai sót khi đăng ký hộ tịch.
Tại Điều 26 Luật hộ tịch quy định về phạm vi thay đổi hộ tịch như sau.
“1. Thay đổi họ, chữ đệm và tên của cá nhân trong nội dung khai sinh đã đăng ký khi có căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự.
2. Thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau khi được nhận làm con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi.”
Căn cứ vào quy định trên của pháp luật thì bạn có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa tên mẹ bạn trên Giấy khai sinh đã được cấp.
Về thẩm quyền:
Do bạn đã trên 14 tuổi nên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Luật hộ tịch thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc của bạn là Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trình tự, thủ tục được quy định như sau:
Bước 1. Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch - Phòng Tư pháp cấp huyện.
Bước 2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy trên, nếu thấy việc thay đổi, cải chính hộ tịch là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.
Trường hợp thay đổi, cải chính hộ tịch liên quan đến Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi, cải chính hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.
Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
Trường hợp đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch không phải tại nơi đăng ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký hộ tịch trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch.
Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.
11. Trong quá trình tôi đi du học tại Nga, tôi có tình cảm rồi kết hôn với anh H, cũng là du học sinh tại trường. Sau đó, chúng tôi đã sinh cháu M. Cháu được đăng ký khai sinh tại Nga. Nay khóa học đã kết thúc, vợ chồng tôi về nước làm việc. Vậy xin hỏi, chúng tôi có thể yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh đã được đăng ký ở nước ngoài?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 7 Thông tư số 15/2015/TT-BTP thì anh chị có thể yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh đã được đăng ký ở nước ngoài. Cụ thể, trường hợp công dân Việt Nam sinh ra ở nước ngoài, đã được đăng ký khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, về cư trú tại Việt Nam, nếu có yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh thì tùy từng trường hợp được giải quyết như sau:
1. Nếu trong Giấy khai sinh do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp ghi quốc tịch là quốc tịch Việt Nam thì Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp huyện) nơi người yêu cầu cư trú, thực hiện ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh theo quy định tại Mục 6 Chương III của Luật hộ tịch và cấp Trích lục ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh.
2. Nếu người yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, người kia là người nước ngoài, trong Giấy khai sinh và giấy tờ đi lại quốc tế do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp không ghi quốc tịch của người đó, đồng thời cha, mẹ có văn bản thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con hoặc cha, mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú thực hiện ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh theo quy định tại Mục 6 Chương III của Luật hộ tịch, cấp Trích lục ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh, quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
12. Ngày 12/5/2015, Tòa án nhân dân huyện A tuyên bố ông Phạm Văn Nh là đã chết. Sau khi quyết định của Tòa án tuyên bố ông Nh chết có hiệu lực pháp luật, những người thừa kế theo pháp luật là vợ và con ông đã thỏa thuận chia tài sản thừa kế của ông để lại. Ngày 27/8 vừa qua, có người thân gọi điện báo có gặp ông Nh tại cơ sở chăm sóc người vô gia cư nhưng trong tình trạng mất trí nhớ. Sau đó, người nhà ông Nh đã đến xác minh và khẳng định đó chính là ông Nh. Xin hỏi, trường hợp này, gia đình ông Nh có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ quyết định tuyên bố ông Nh đã chết không?
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 73 Bộ luật dân sự 2015 thì, khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Cũng tại khoản 1 Điều 394 Bộ luật tố tụng dân sự quy định, khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
Do đó, trường hợp xác định đúng ông Nh vẫn còn sống thì gia đình ông Nh có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ quyết định tuyên bố ông Nh đã chết.
13. Anh T có hộ khẩu thường trú tại xã X, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Từ năm 2010, anh T chuyển đến tỉnh Bình Dương làm công nhân. Tới đây, anh chuẩn bị kết hôn với chị H, người tại địa phương, cùng làm công nhân tại công ty. Tuy nhiên, do không có điều kiện kinh tế để về quê xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân nên muốn nhờ bố mẹ đẻ - những người đang cùng có tên trong sổ hộ khẩu với anh, hiện đang sinh sống tại xã X đến Uỷ ban nhân dân xã xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì có được không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư số 15/2015/TT-BTP, người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, yêu cầu đăng ký các việc hộ tịch theo quy định tại Điều 3 của Luật hộ tịch được uỷ quyền cho người khác thực hiện thay, trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Do đó, anh T có thể ủy quyền cho bố mẹ anh, những người đang ở có tên cùng sổ hộ khẩu với anh tại xã X đến Uỷ ban nhân dân xã xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho anh.
14. Vợ chồng ông B, bà C cư trú tại xã X, huyện Z, tỉnh HB, dân tộc Mường. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, lại đông con nên vợ chồng ông bà đồng ý cho con trai là cháu H – 3 tuổi, là con thứ bảy của ông bà làm con nuôi vợ chồng ông M, bà K, hiện đang cư trú tại phường Y, quận HĐ, thành phố HN. Để sau này cháu H lớn lên gắn bó tình cảm gia đình với cha mẹ nuôi, vợ chồng ông M, bà K muốn đổi họ tên cũng như dân tộc của cháu theo họ, dân tộc của cha nuôi thì có được không? Nếu được, thì trình tự, thủ tục được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Họ, tên và dân tộc là những đặc điểm nhân thân cơ bản, có tính ổn định, thể hiện nguồn gốc và huyết thống của mỗi cá nhân, gắn liền với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời, được xác định trên Giấy khai sinh và chỉ có thể thay đổi trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 Bộ luật dân sự năm 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi”.
Cũng tại khoản 2 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.”
Như vậy sau khi nhận nuôi con nuôi thì ông M, bà K có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi họ tên của con nuôi là cháu H. Để làm thay đổi họ, tên của cháu H, ông bà có thể đến UBND cấp xã, nơi cháu đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của cháu để nghị giải quyết.
Về việc thay đổi dân tộc của cháu H:
Xác định lại dân tộc là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký xác định lại dân tộc của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật dân sự 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây:
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.
Như vậy, pháp luật không quy định việc cho phép xác định lại dân tộc của một người từ dân tộc của cha đẻ sang dân tộc của cha nuôi. Chính vì vậy, ông M, bà K không thể đề nghị cơ quan nhà nước thay đổi dân tộc của cháu H.
15. Trong bản sao Giấy khai sinh của Nguyễn Văn A cấp năm 1975 ghi họ tên cha là Nguyễn Văn B, sinh năm 1950, quốc tịch Việt Nam. Nhưng hiện nay người cha đã thôi quốc tịch Việt Nam, nhập quốc tịch Pháp, thay đổi họ tên là Nguyen Jack. Vậy, khi đăng ký lại khai sinh cho Nguyễn Văn A, phần khai về người cha trong Giấy khai sinh được ghi như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Thông tư số 15/2015/TT-BTP thì trường hợp hiện tại thông tin về cha, mẹ, bản thân người yêu cầu đăng ký lại khai sinh có thay đổi so với nội dung giấy tờ cấp trước đây thì người đó có trách nhiệm xuất trình giấy tờ chứng minh việc thay đổi. Nếu việc thay đổi thông tin là phù hợp với quy định pháp luật thì nội dung đăng ký lại khai sinh được xác định theo thông tin thay đổi; nội dung thông tin trước khi thay đổi được ghi vào “Phần ghi chú những thay đổi sau này” tại mặt sau của Giấy khai sinh và mục “Ghi chú” trong Sổ đăng ký khai sinh.
Theo đó, phần khai về người cha trong Giấy khai sinh được ghi như sau:
“Họ tên cha: Nguyen Jack, sinh năm 1950, quốc tịch Pháp”.
“Phần ghi chú những thông tin thay đổi sau này” tại mặt sau của Giấy khai sinh và mục “Ghi chú” trong Sổ đăng ký khai sinh ghi rõ: Người cha thay đổi họ tên và quốc tịch từ Nguyễn Văn B, quốc tịch Việt Nam, thành Nguyen Jack, quốc tịch Pháp.
BBT