Thứ nhất,việc xác định người được TGPL được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa những đối tượng hiện đang được TGPL, phù hợp với các chính sách đặc thù và điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. So với Luật TGPL năm 2006, diện người được TGPL đã được mở rộng (từ 06 diện người lên 14 diện người). Theo đó, 02 đối tượng được kế thừa hoàn toàn từ Luật TGPL năm 2006 là người thuộc hộ nghèo và người có công với cách mạng; 02 đối tượng được kế thừa và mở rộng là trẻ em không nơi nương tựa thành tất cả trẻ em, người dân tộc thiểu số "thường trú" thành "cư trú" tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (cư trú sẽ rộng hơn thường trú vì cư trú bao gồm thường trú và tạm trú).Bên cạnh đó, Luật này đã bổ sung 02 nhóm là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (hiện nay đang thuộc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự) và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo để bảo đảm chính sách hình sự đối với các nhóm đối tượng này.Ngoài ra, Luật có quy định mới trong việc áp dụng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với 08 nhóm người như tại khoản 7 Điều 7 Luật để cung cấp cho những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý. Chính phủ sẽ có quy định chi tiết về điều kiện có khó khăn về tài chính áp dụng với các nhóm người này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Thứ hai, một trong các điểm mới quan trọng của Luật TGPL 2017 so với Luật TGPL năm 2006 là bổ sung 01 điều riêng về nguồn ngân sách cho hoạt động TGPL. Điều 5 Luật TGPL quy định nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước, các nguồn hợp pháp khác. Nhà nước bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật ngân sách nhà nước..
Đó là nguồn lực tài chính. Còn nguồn lực con người, thì ngoài đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý được Nhà nước tuyển dụng để chuyên thực hiện TGPL trong toàn quốc, Luật TGPL năm 2017 còn giao Sở Tư pháp ký hợp đồng thực hiện TGPL với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và trả thù lao cho các tổ chức này. Luật TGPL 2017 đã có các quy định bảo đảm thi hành các điều khoản của Luật.
Thứ ba, với mục tiêu xuyên suốt toàn bộ các quy định Luật là nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL hướng đến bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Hoạt động TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho người nghèo và một số đối tượng yếu thế nhằm góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, do đó dịch vụ được cung cấp cho những người này phải được thực hiện bởi những chủ thể có đủ năng lực, có đủ trình độ và kỹ năng hành nghề.Việc ký hợp đồng thực hiện TGPL khắc phục được phần nào bất cập trong thời gian qua đó là việc tổ chức tham gia TGPL chưa nhận được sự hỗ trợ kinh phí từ Nhà nước. Nếu được hưởng kinh phí khi thực hiện vụ việc TGPL thì sẽ có nhiều tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật mong muốn được ký hợp đồng, do đó Nhà nước sẽ lựa chọn được những tổ chức tốt nhất, tâm huyết với hoạt động TGPL để cung cấp dịch vụ có chất lượng cho người được TGPL.Đồng thời, việc huy động các tổ chức tham gia thực hiện TGPL thông qua cơ chế ký hợp đồng TGPL sẽ tạo sự cạnh tranh giữa các tổ chức thực hiện TGPL, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL của các tổ chức thực hiện TGPL nói chung, Trung tâm TGPL nhà nước nói riêng.Để thực thi quy định này Luật cũng giao cho Sở Tư pháp thẩm quyền rất quan trọng trong hoạt động TGPL, đó là thông qua việc quản lý, đánh giá hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước và nắm bắt yêu cầu TGPL tại địa phương quyết định việc lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có nguyện vọng, đáp ứng các điều kiện tối thiểu của Luật.
Thứ tư, một trong những mục tiêu lớn và quan trọng của việc xây dựng Luật TGPL lần này là nâng cao chất lượng TGPL. Để thực hiện mục tiêu này, Luật TGPL quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL. Cụ thể:
- Về tổ chức tham gia TGPL: để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội, Luật TGPL quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL.
- Về người thực hiện TGPL: Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý tương đương với luật sư, cụ thể là bổ sung tiêu chuẩn phải trải qua tập sự nghề (TGPL hoặc luật sư) để Trợ giúp viên pháp lý có thời gian tập sự vận dụng kiến thức, kỹ năng trước khi được thực hiện và chịu trách nhiệm về về dịch vụ TGPL. Đồng thời, Luật quy định các điều kiện cụ thể đối với luật sư, cộng tác viên để được lựa chọn ký hợp đồng thực hiện TGPL.
Như vậy, không phải bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nguyện vọng đều được cung cấp dịch vụ TGPL như Luật năm 2006. Theo Luật TGPL năm 2017, để được cung cấp dịch vụ TGPL, các tổ chức, cá nhân cần đáp ứng yêu cầu, điều kiện tối thiểu do Luật định để bảo đảm chất lượng dịch vụ họ cung cấp cho người được TGPL. Để đáp ứng nhu cầu TGPL của người được TGPL tại những nơi không có chi nhánh, Luật TGPL có chế định cộng tác viên TGPL là những người có trình độ, kinh nghiệm làm công tác pháp luật đó là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, Trợ giúp viên pháp lý... đã nghỉ hưu.
Ngoài ra, Luật TGPL cũng cho phép tổ chức thực hiện TGPL tiếp người được TGPL tại địa điểm khác ngoài trụ sở.
Thứ năm, một trong những bất cập chủ yếu của công tác TGPL thời gian qua là hoạt động TGPL còn dàn trải, chưa tập trung vào nhiệm vụ chính của TGPL là giải quyết các vụ việc, vướng mắc pháp luật cụ thể của người được TGPL. Theo đó, các quy định của Luật TGPL năm 2017 đi vào bản chất của hoạt động TGPL là tập trung vào vụ việc cụ thể đồng thời bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách có hạn dành cho công tác TGPL. Cụ thể, trong khái niệm tại Điều 2 Luật xác định TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí trong các vụ việc TGPL...; khoản 2 Điều 27 của Luật cũng chỉ quy định 03 hình thức TGPL gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng là 03 loại hình cung cấp dịch vụ pháp lý cơ bản hiện nay. Ngoài ra, Luật TGPL năm 2017 quy định chế tài nghiêm khắc đối với Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc TGPL. Cụ thể, Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm mà không có lý do chính đáng sẽ bị miễn nhiệm, thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý (khoản 1 Điều 22).
Thứ sáu, với quan điểm lấy người được TGPL làm trung tâm, quy định về trình tự, thủ tục trong Luật TGPL năm 2017 cũng như trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đã có khác biệt so với Luật TGPL năm 2006 để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người được TGPL khi có tranh chấp, vướng mắc pháp luật, cụ thể: so với Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 có nhiều quy định mới để tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ, như: quy định phải công bố danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL để người dân biết và thực hiện quyền lựa chọn của mình; ngoài hình thức nộp đơn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện, yêu cầu TGPL còn được gửi qua hình thức điện tử, fax để tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại; trong các tình huống cụ thể nếu gặp trường hợp cần được TGPL mà đối tượng có khó khăn không thể tự mình đến tổ chức thực hiện TGPL thì các tổ chức, cá nhân có thể thay mặt người được TGPL yêu cầu TGPL. Luật TGPL năm 2017 quy định trường hợp thụ lý giải quyết ngay khi người yêu cầu chưa thể cung cấp hồ sơ theo quy định để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đó là các trường hợp vụ việc sắp hết thời hiệu, sắp đến ngày xét xử, hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người thuộc diện được TGPL có nguy cơ bị thiệt hại.
Thứ bẩy, để thực hiện mục tiêu tập trung thực hiện vụ việc TGPL, đặc biệt là vụ việc tham gia tố tụng, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đã được Luật TGPL năm 2017 bổ sung một số quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL, đặc biệt là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Lần đầu tiên trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quy định trong Luật TGPL chứ không chỉ quy định trong các bộ luật, luật về tố tụng.Điều 31 Luật TGPL năm 2017 quy định rõ trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo, người bị hại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại địa phương.
Các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Đây là những nội dung quan trọng trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc chỉ định người bào chữa mở rộng cho những bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt từ 20 năm tù trở lên.Với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và quy định của Luật TGPL năm 2017 vừa được Quốc hội thông qua, chúng tôi hy vọng số lượng vụ việc tố tụng có sự tham gia của người thực hiện TGPL sẽ tăng lên, quyền của người thực hiện TGPL và người được TGPL sẽ được bảo đảm trong quá trình tố tụng.
Trợ giúp pháp lý được coi là một chính sách có ý nghĩa nhân văn sâu sắc trng tổng thể các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, hệ thống TGPL đang dần hiện thực hoá chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền được TGPL, tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật của người nghèo, đối tượng chính sách và người yếu thế trong xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân./.
Đào Minh Hải - Giám đốc Trung tâm TGPL