|
Hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ
Luật Đấu giá tài sản - những điểm nổi bật trong việc triển khai thực hiện đã đi vào cuộc sống
Sau hơn một năm triển khai thi hành Luật Đấu giá tài sản, không thể không phủ nhận những mặt tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong việc tham gia hoạt động đấu giá mà Luật Đấu giá tài sản điều chỉnh.
Một là, mở rộng phạm vi thành lập và quy định chi tiết hơn về các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp
Theo Khoản 1 Điều 23 Luật đấu giá tài sản quy định về Doanh nghiệp đấu giá tài sản: “Doanh nghiệp đấu giá tài sản được thành lập, tổ chức và hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan"
Như vậy phạm vi của tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp theo Luật đấu giá được mở rộng hơn so với Nghị định 17/2010/NĐ-CP chỉ quy định Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản được thành lập theo Luật Doanh nghiệp và theo quy định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP chỉ quy định chung chung về Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản mà không quy định chi tiết như Luật Đấu giá tài sản mới, điều này cho thấy xã hội ngày càng phát triển thì pháp luật cũng phải mở rộng để đáp ứng với nhu cầu của xã hội.
Hai là, quy định mở rộng, chi tiết về tài sản bán đấu giá đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
Đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Nghị định 17/2010/NĐ-CP chỉ thu hẹp trong các loại tài sản như “Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;” nhưng Luật Đấu giá tài sản quy định mở rộng tài sản bán phải thông qua đấu giá: “Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước, tài sản kê biên để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”. Như vậy theo quy định của Luật Đấu giá tài sản tất cả các tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước để đảm bảo cho việc thi hành quyết định xử phạt đều phải thông qua hình thức bán đấu giá tài sản trong đó có quy định thêm cả nội dung về tài sản kê biên để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Luật Đấu giá tài sản quy định mở rộng về tài sản phải thông qua đấu giá mà trong Nghị định 17/2010/NĐ-CP chưa quy định đó là: Tài sản là hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia; Tài sản cố định của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; Tài sản hạ tầng đường bộ và quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng và khai thác kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Tài sản là quyền khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản; Tài sản là quyền sử dụng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; Tài sản là quyền sử dụng tần số vô tuyến điện theo quy định của pháp luật về tần số vô tuyến điện; Tài sản là nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật …
Ba là, quy định những điểm mới trong việc thực hiện ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá:
Chủ thể giao kết hợp đồng: Theo quy định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì chủ thể ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thực hiện giữa tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp (được cơ quan có tài sản ủy quyền) và người trúng đấu giá tài sản. Tuy nhiên theo khoản 2 Điều 46 Luật Đấu giá tài sản quy định : “Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được ký kết giữa người có tài sản đấu giá với người trúng đấu giá hoặc giữa người có tài sản đấu giá, người trúng đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản nếu các bên có thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự”, như vậy đối với việc giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá có thêm cả quy định về việc giao kết hợp đồng 3 bên nếu có sự thỏa thuận (người có tài sản, tổ chức bán đấu giá và người mua tài sản trúng đấu giá). Điều này cho thấy việc mở rộng chủ thể ký hợp đồng tạo sự linh hoạt trong việc thực hiện các trình tự liên quan đến việc bán đấu giá tài sản, tạo niềm tin cho người trúng đấu giá tài sản.
Việc chấp nhận giao kết hợp đồng tại Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định không rõ về việc trong phiên bán đâu giá tài sản người trả giá cao nhất có phải ký vào biên bán trúng đấu giá mà chỉ quy định chung chung tại điểm c khoản 1 điều 34 của Nghị định 17/2010/NĐ-CP: “Nếu sau ba lần đấu giá viên nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người trả giá cao hơn thì đấu giá viên công bố người mua được tài sản bán đấu giá. Sau khi đấu giá viên công bố, người mua được tài sản bán đấu giá được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá.” và khoản 2 : “Diễn biến của cuộc bán đấu giá tài sản phải được ghi vào biên bản bán đấu giá tài sản. Biên bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản, người ghi biên bản, một người tham gia đấu giá và một người tham dự cuộc bán đấu giá (nếu có)”. Điều này thể hiểu trong biên bản bán đấu giá của Nghị định 17/2010/NĐ-CP chỉ có chữ ký của Đấu giá viên điều hành, người tham gia đấu giá, Người tham dự đấu giá mà không quy định rõ người trúng đấu giá phải ký vào biên bản trúng đấu giá mà chỉ quy định việc người trúng đấu giá chấp nhận giao kết hợp đồng khi đấu giá viên công bố người trả giá cao nhất là người trúng đấu giá. Để khắc phục tình trạng quy định không rõ trong việc chấp nhận giao kết hợp đồng tại khoản 3 điều 46 Luật Đấu giá tài sản quy định: “ Người trúng đấu giá được coi như chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá kể từ thời điểm đấu giá viên công bố người trúng đấu giá, trừ trường hợp người trúng đấu giá từ chối ký biên bản đấu giá quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật này hoặc từ chối kết quả trúng đấu giá quy định tại Điều 51 của Luật này. Kể từ thời điểm này, quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Bốn là, đấu giá trong trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá.
Tại Điều 37 Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định: “Việc bán đấu giá tài sản trong trường hợp chỉ có một người tham gia đấu giá không áp dụng đối với tài sản được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 1 Nghị định này” Tại điểm d khoản 2 điều 1 quy định: “ Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định đối với tài sản quản lý nhà nước như trụ sở, tài sản bỏ quên, Tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, Tài sản là di sản không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có người thừa kế nhưng người đó không được quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước… thì không được bán đấu giá trong trường hợp một người tham gia việc này đã hạn chế người tham gia đấu giá khi người tham gia có nhu cầu thực sự. Nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế của Nghị định 17/2010/NĐ-CP, Luật Đấu giá tài sản quy định việc chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá là tất cả các tài sản theo quy định thông qua hình thức đấu giá nhưng người tham gia đấu mà chỉ có một người đăng ký tham gia, một người trả giá sau khi đã tiến hành tổ chức đấu giá lần đầu nhưng không thành đối với phương thức trả giá lên: “ Trường hợp đấu giá tài sản theo phương thức trả giá lên, khi đã hết thời hạn đăng ký tham gia mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc đấu giá, hoặc có nhiều người tham gia cuộc đấu giá nhưng chỉ có một người trả giá, hoặc có nhiều người trả giá nhưng chỉ có một người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm thì tài sản được bán cho người đó nếu người có tài sản đấu giá đồng ý bằng văn bản;
Trường hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc đấu giá và chấp nhận giá khởi điểm hoặc chấp nhận mức giá sau khi đã giảm thì tài sản được bán cho người đó nếu người có tài sản đấu giá đồng ý bằng văn bản”
Việc bán đấu giá chỉ có một người theo Luật Đấu giá tài sản không hạn chế đối với loại tài sản chỉ tổ chức đấu giá đối với trường hợp một người đăng ký tham gia đấu giá khi đã thực hiện đầy đủ phiên bán đấu giá nhưng không thành, việc này có thể hiểu như sau: Trường hợp bán đấu giá đã thực hiện đầy đủ các thủ tục nhưng không bán được không có 02 người tham gia trả giá và chấp nhận trả giá bằng giá khởi điểm hoặc giá đã giảm thì được bán cho người đó và có sự đồng ý của cơ quan có tài sản.
Năm là, quy định về tiền đặt trước và xử lý tiền đặt trước
Khoản tiền đặt trước được nâng lên theo Luật đấu giá, theo quy định của Nghị định 17 thì khoản tiền đặt trước quy định từ 1% đến 15% thì Luật đấu giá tài sản đã nâng mức tối thiểu phải là 5% và mức tối đa là 20%, như vậy trong trường hợp này đối với những tài sản mà giá khởi điểm thấp thì khoản tiền đặt trước theo quy định của Luật đấu giá có thể nâng lên mức tối đa là 20% hạn chế tối đa tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, móc nối, thông đồng, dìm giá, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan, tránh gây thất thoát cho tài sản nhà nước chỉ vì mức tiền đặt trước thấp, nhằm khắc phục tình trạng những người tham gia đấu giá liên kết với nhau để dìm giá hoặc họ sẵn sàng chịu mất số tiền đặt trước trong trường hợp từ chối mua tài sản với mục đích gây khó khăn cho người có quyền và lợi ích liên quan hoặc vì mục đích vụ lợi. Quy định như trên sẽ góp phần bảo đảm quyền lợi của người có tài sản, không làm giảm giá trị của tài sản bán đấu giá và bảo đảm cuộc bán đấu giá thành.
Vũ Trung Anh
|
|