Ngày 15/11/2018, Quốc hội khóa XIV bỏ phiếu thông qua Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước tại kỳ họp thứ 6 với 444/447 đại biểu có mặt tán thành (chiếm 91,55%). Trong đó, Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước có một số nội dung cơ bản như sau:
Một là, đưa ra khái niệm về bí mật nhà nước.
Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước xác định Bí mật nhà nước là: “thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định của Luật này, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc”. Theo quy định của Luật thì bí mật nhà nước có 3 thuộc tính cơ bản: Thứ nhất, bí mật nhà nước là thông tin quan trọng; thứ hai, là thông tin chưa được công khai, nếu bị lộ, bị mất sẽ gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc; thứ ba, phải được người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định theo quy định tại Luật này. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định hình thức chứa đựng bí mật nhà nước bao gồm tài liệu, vật, địa điểm, lời nói, hoạt động hoặc các dạng khác.
Hai là, Luật liệt kê các hành vi bị nghiêm cấm trong bảo vệ bí mật nhà nước. Để phòng ngừa lộ, mất bí mật nhà nước và có căn cứ để xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, Luật quy định một điều (Điều 5) về các hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể: Làm lộ, chiếm đoạt, mua, bán bí mật nhà nước; làm sai lệch, hư hỏng, mất tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; thu thập, trao đổi, cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước trái pháp luật; soạn thảo, lưu giữ tài liệu có chứa nội dung bí mật nhà nước trên máy tính hoặc thiết bị khác đã kết nối hoặc đang kết nối với mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, trừ trường hợp lưu giữ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật về cơ yếu; truyền đưa bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin, viễn thông trái với quy định của pháp luật về cơ yếu; đăng tải, phát tán bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, mạng máy tính và mạng viễn thông...
Ba là, Luật đã xác định phạm vi bí mật nhà nước.
Theo đó, phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng trong các lĩnh vực được liệt kê trong Điều 7 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Luật xây dựng trên cơ sở rà soát nội dung bí mật nhà nước tại 96 danh mục bí mật nhà nước hiện tại và chia phân loại thành 15 lĩnh vực. Trên cơ sở phạm vi quy định tại Điều này, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành danh mục cụ thể về bí mật nhà nước theo trình tự, thủ tục chặt chẽ.
Bốn là, Luật đã xác định chủ thể có thẩm quyền ban hành danh mục bí mật nhà nước.
Căn cứ vào quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Luật, Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật và Mật trên cơ sở đề xuất của người có trách nhiệm lập danh mục bí mật nhà nước và thẩm định của Bộ Công an (trừ danh mục thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Quốc phòng).
Quy định này đã thống nhất một chủ thể ban hành danh mục quy định cả ba độ mật (tuyệt mật, tối mật và mật), khắc phục được tình trạng chồng chéo, thiếu bao quát nếu để cho Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập danh mục bí mật nhà nước bởi sẽ không bao quát hết được các lĩnh vực và khi đó 63 tỉnh, thành phố ban hành danh mục khác nhau dẫn tới việc thiếu đồng nhất.
Tuy nhiên, với danh mục bí mật nhà nước thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng thì trong dự thảo luật không có quy định về việc thẩm định sự phản biện trước khi ban hành.
Năm là, xác định thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước, gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước.
Luật quy định thời hạn bảo vệ đối với bí mật nhà nước độ tuyệt mật là 30 năm, độ tối mật là 20 năm, độ mật là 10 năm, đây là quy định tiến bộ của Luật nhằm đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tuy nhiên, quy định về việc gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước sẽ làm cho quy định thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước trở nên vô hiệu. Nếu việc giải mật gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc được quy định tại khoản 1 Điều 20 thì có thể gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước và mỗi lần gia hạn không quá thời hạn bảo vệ quy định ở khoản 2 Điều 19. Có thể chúng ta gia hạn rất nhiều lần, không có quy định cụ thể là gia hạn bao nhiêu lần. Như vậy sẽ mâu thuẫn giữa Điều 19 và Điều 20. Đồng thời luật cũng quy định, khi các bí mật nhà nước hết thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước, theo quy định tại khoản 2 Điều 19 của luật này thì hiện nay có rất nhiều các loại văn bản, ví dụ thư mời hoặc kế hoạch đón tiếp lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thăm một tỉnh thì chúng ta đóng dấu mật. Sau khi lãnh đạo Đảng, Nhà nước kết thúc chuyến thăm đó một ngày, quay về thì đến hôm sau báo, đài, tivi đưa. Nội dung đó người dân đều biết hết, vậy có ý nghĩa về mật nữa không?
Sáu là quy định về việc giải mật.
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định bí mật nhà nước sẽ được xóa bỏ độ mật nếu thuộc một trong các trường hợp sau: một là, hết thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước quy định tại Điều 19 và Điều 20; hai là đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập, hợp tác quốc tế; ba là không còn thuộc danh mục bí mật nhà nước.
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, khắc phục khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, luật cũng quy định việc đương nhiên giải mật đối với trường hợp bí mật nhà nước không còn thuộc danh mục bí mật nhà nước; trường hợp bí mật nhà nước chỉ cần bảo vệ trong khoảng thời gian nhất định hoặc đã hết thời hạn bảo vệ theo quy định mà cơ quan có thẩm quyền không quyết định gia hạn.
Hội đồng giải mật gồm: Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức xác định độ mật của bí mật nhà nước làm chủ tịch Hội đồng và đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan.
Hồ sơ giải mật gồm: Quyết định thành lập Hội đồng giải mật; bí mật nhà nước đề nghị giải mật; biên bản họp Hội đồng giải mật; quyết định giải mật và tài liệu khác có liên quan.
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2020, gồm năm Chương và 28 Điều, sẽ thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước số 30/2000/PL-UBTVQH10 hiện hành. Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định về bí mật Nhà nước, hoạt động bảo vệ bí mật Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan./.
Linh Chi