1. Khái niệm Chi phí tuân thủ pháp luật
- Theo thông lệ quốc tế: “Chi phí tuân thủ pháp luật” được hiểu là các loại chi phí liên quan tới việc tuân thủ, thực hiện một quy định của pháp luật, bao gồm các chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Đối tượng chịu chi phí đó có thể là doanh nghiệp, người dân và chính phủ.
Chi phí tuân thủ pháp luật được tạo ra từ một quy định pháp luật qua hoạt động của cơ quan nhà nước (khi tiến hành các hoạt động soạn thảo, thông qua???, thực thi các văn bản pháp luật) và cá nhân, tổ chức khi tuân thủ quy định pháp luật.
- “Chi phí tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức”: Là các chi phí mà người dân, tổ chức (trong đó có các doanh nghiệp) phải gánh chịu trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật.
Chi phí tuân thủ pháp luật bao gồm các loại chi phí:
+ Chi phí hành chính: Chi phí về nhân công và thời gian mà người dân, tổ chức phải gánh chịu để thực hiện các yêu cầu của pháp luật, bao gồm thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) với cơ quan nhà nước và các nghĩa vụ khác (ví dụ: Lưu giữ thông tin hoặc cung cấp thông tin cho khách hàng, người tiêu dùng…).
+ Chi phí đầu tư để tuân thủ quy định: Chi phí mà người dân, tổ chức phải đầu tư về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, nhân công, đào tạo,… để đáp ứng các yêu cầu theo PL.
+ Phí, lệ phí: Các khoản phí, lệ phí chính thức mà người dân, tổ chức phải nộp trong quá trình thực hiện các thủ tục có liên quan.
+ Chi phí rủi ro pháp lý (nếu có): Chi phí tăng thêm, thiệt hại hoặc mất cơ hội kinh doanh mà người dân, tổ chức phải gánh chịu do chất lượng kém của quy định pháp luật dẫn đến bị xử phạt hoặc chậm chễ trong giải quyết thủ tục.
+ Chi phí không chính thức: Các khoản trả thêm hoặc “lót tay” liên quan đến việc xuất khẩu, nhập khẩu, sử dụng dịch vụ công cộng (ví dụ: điện thoại, điện năng), trả thuế, … hoặc để được nhận các hợp đồng, giấy phép trong lĩnh vực công hoặc để có được các quyết định thuận lợi.
2. Khái niệm Chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (gọi tắt là chỉ số B1) là một trong những chỉ số nằm trong mục Hiệu quả khu vực công. Mục hiệu quả khu vực công được tính với thang đo/đơn vị tính là từ 0-100, với 100 là điểm số tốt nhất.
Theo đó, Chỉ số B1 có thể được hiểu là chỉ số tổng hợp ý kiến cảm nhận (thông qua trả lời câu hỏi khảo sát) về mức độ tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tuân thủ những quy định của pháp luật (làm phát sinh chi phí TTPL: chi phí hành chính; chi phí đầu tư để tuân thủ quy định; phí, lệ phí; chi phí rủi ro pháp lý; chi phí không chính thức), được xếp theo thang bậc đánh giá tính từ mức 01 (kém nhất) đến mức 07 (tốt nhất).
Các doanh nghiệp được khảo sát phải phù hợp với các tiêu chí được Diễn đàn kinh tế thế giới đặt ra.
Như vậy, Chỉ số B1 là một trong những chỉ số quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh vì nếu gánh nặng chi phí tuân thủ pháp luật mà các doanh nghiệp phải gánh chịu lớn do quy định pháp luật phức tạp, đặt ra nhiều yêu cầu, điều kiện, do mức phí và lệ phí không hợp lý thì sẽ tạo ra chi phí hành chính, chi phí đầu tư, phí và lệ phí cao; quy định pháp luật không rõ ràng, không khả thi sẽ tạo thêm chi phí cơ hội và chi phí không chính thức cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nếu việc tổ chức thi hành pháp luật không tốt sẽ làm gia tăng chi phí hành chính, chi phí không chính thức hoặc chi phí rủi ro pháp lý, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này gây cản trở việc đầu tư của các doanh nghiệp, hạn chế năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, cản trở phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày 01/01/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Theo đó, phấn đấu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta thuộc nhóm ASEAN 4. Trong đó có mục tiêu rõ ràng về cải thiện năng lực cạnh tranh đối với 10 chỉ số. Cụ thể, nâng xếp hạng Chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật lên từ 5 đến 10 bậc. Theo đó, Bộ Tư pháp được giao làm cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đối với Chỉ số B1. Ngày 08/3/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 554/QĐ-BTP ngày 08/3/2019 về việc ban hành Kế hoạch hành động Thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, trong đó xác định 03 nhiệm vụ lớn phải thực hiện trong giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2021 để nhằm đạt được các mục tiêu đề ra: (1) Thực hiện trách nhiệm là cơ quan đầu mối chủ trì theo dõi việc cải thiện các chỉ số, chỉ số thành phần (chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật; chỉ số Giải quyết tranh chấp hợp đồng; chỉ số Pháp sản doanh nghiệp); (2) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Văn phòng Chính phủ; các Bộ, ngành liên quan; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố đẩy mạnh tổ chức triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực, góp phần giảm chi phí sản xuất, kinh doanh; nghiên cứu lồng ghép một số tiêu chí đánh giá, xếp hạng chỉ số B1 vào nội dung chấm điểm Chỉ số cải cách hành chính và Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính; xây dựng, cập nhật Kiến trúc Chính phủ điện tử giai đoạn 2018 – 2020; (3) Tăng cường công tác truyền thông về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trong đó chú trọng các nội dung liên quan đến nhiệm vụ của Bộ Tư pháp.
Qua 2 năm triển khai, tổ chức thực hiện, các Chỉ số mà Bộ Tư pháp được giao theo dõi, tham mưu đã được cải thiện và nâng hạng đáng kể. Nhằm tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh nói chung và cải thiện điểm số, duy trì thứ hạng Chỉ số B1 năm 2021 nói riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, ngày 30/3/2021, UBND tỉnh đã ban hành Văn bản số 1192/UBND-NCKS yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành, thị trên địa bàn tổ chức thực hiện các 07 nội dung trọng tâm, cụ thể:
- Tiếp tục rà soát, đánh giá toàn bộ các quy định về phí, lệ phí thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực, địa bàn quản lý để kịp thời phát hiện các quy định chưa phù hợp, làm tăng chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp để trình cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
- Rà soát, lập danh mục các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh có nội dung chưa rõ, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu khả thi để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ.
- Công bố kịp thời, đầy đủ, công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các điều kiện kinh doanh được bãi bỏ, các điều kiện kinh doanh đã được đơn giản hóa, các nội dung sửa đổi, bổ sung, các quy định mới trong các lĩnh vực kinh doanh dễ làm phát sinh các chi phí không chính thức trong tuân thủ pháp luật,
- Tiếp tục thu thập, cập nhật thông tin, tiếp nhận ý kiến phản ánh của các cá nhân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm tăng cường hoạt động tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại với đại diện các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp.
- Chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp phản ánh, kiến nghị. Trường hợp không giải quyết được thì phải có văn bản trả lời rõ ràng cho doanh nghiệp biết.
- Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các giải pháp nêu tại Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, dịch vụ bưu chính trong thực hiện tiếp nhận, giải quyết các thủ tục hành chính nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian cho người dân, doanh nghiệp, góp phần đảm bảo công tác phòng, chống dịch bệnh Covid – 19 trong tình hình mới.
Đây là các nhiệm vụ quan trọng góp phần tạo thuận lợi và giảm gánh nặng của chi phí tuân thủ pháp luật đối với các doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị về phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới./.
Lê Uyên