Hoạt động đánh giá tác động của dự thảo là một bước nằm trong quá trình soạn thảo VBQPPL đòi hỏi các nhà làm luật phải có được những nhận định, đánh giá ban đầu khi soạn dự thảo. Mặc dù, khi lập chương trình/ kế hoạch xây dựng VBQPPL các nhà làm luật đã phải dựa trên cơ sở thực tiễn để nghiên cứu, tuy nhiên khi đi vào cụ thể chi tiết các quy phạm lại phải được đánh giá kiểm tra lần nữa để đảm bảo sự hiệu quả, tính hợp pháp hợp lí của văn bản QPPL. Hoạt động đánh giá tác động của dự thảo VBQPPL có vai trò vô cùng quan trọng, cụ thể:
Thứ nhất, đánh giá khả năng tác động của dự thảo VBQPPL nhằm dự báo những tác động tích cực, tiêu cực của dự thảo văn bản. Việc dự báo những tác động tích cực hay tiêu cực của dự thảo văn bản là rất cần thiết bởi vì tùy vào từng thời điểm xã hội, tình hình kinh tế, giáo dục mà xem xét có nên hay không ban hành văn bản qui phạm pháp luật và khi nó ra đời thì có những mặt nào đáp ứng được, mặt nào còn có vướn mắc. Ví dụ như cần có hoạt động đánh giá tác động của dự thảo ban hành Luật Dân số để quy định về quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, phân bố dân số, lồng ghép dân số trong phát triển, biện pháp thực hiện công tác dân số và quản lý nhà nước về dân số. Qua đó, chúng ta xem xét trên thực tế có giải quyết được tình trạng mật độ tình trạng của dân cư trên các thành phố lớn hay không, hay chất lượng đời sống dân cư có được ổn định không.... Nếu không có hoạt động đánh giá tác động của dự thảo văn bản thì việc ban hành những văn bản không cần thiết sẽ dẫn đến sự lãng phí công sức, tiền bạc,... mà đôi khi những bất cập của xã hội thì chưa được giải quyết triệt để.
Thứ hai, đánh giá khả năng tác động của dự thảo VBQPPL nhằm đưa ra những biện pháp khắc phục trước và sau khi ban hành.
Không thể đòi hỏi một cách tuyệt đối đối với hiệu quả của VBQPPL, cho dù đã cố gắng hết sức để nghiên cứu, tìm ra những phương án tối ưu nhất song ít nhiều có những hạn chế nhất định là điều không thể tránh khỏi. Để văn bản quy phạm pháp luật ban hành có hiệu quả thì trước hết phải chú trọng tới việc dự liệu những phương án giải quyết các vấn đề trước và sau khi VBQPPL được ban hành. Trong đó có những vấn đề cần giải quyết, phương hướng giải quyết, cơ quan thực hiện, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan và các vấn đề khác như đội ngũ cán bộ, kinh phí thực hiện,… Việc hoạch định ra những dự liệu này không chỉ phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật mà còn phải dựa trên những nhu cầu khách quan và đòi hỏi của thực tế cuộc sống. Có như vậy, khi văn bản quy phạm pháp luật ra đời, văn bản quy phạm pháp luật mới đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, có tính khả thi và hiệu quả trong cuộc sống. Ngoài ra, đối với đề nghị, kiến nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, phải nêu lên được những tác động kinh tế - xã hội, nội dung, chính sách cơ bản của văn bản,… Cùng với đó, phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc lập và thực hiện chương trình bằng cách quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm đối với các cơ quan tham gia xem xét dự kiến chương trình; với cơ quan đề nghị xây dựng văn bản thì cần phải có trách nhiệm giải trình và bảo vệ dự kiến chương trình do mình đề xuất.
Thứ ba, đánh giá khả năng tác động của dự thảo VBQPPL là cơ sở để so sánh, đánh giá tác động của VBQPPL đối với xã hội trước và sau khi ban hành.
Đây là yếu tố quan trọng mà các nhà làm luật phải cố gắng đạt được khi tiến hành soạn thảo VBQPPL bởi vì điều người dân quan tâm không phải là việc quá trình các nhà làm luật soạn thảo VBQPPL như thế nào, họ đã làm những gì để tạo nên một VBQPPL mà quan trọng đối với họ là việc sau khi VBQPPL ra đời nó đem lại những lợi ích gì cho xã hội, khắc phục được vẫn đề gì so với trước đó. Cụ thể, các nhà làm luật phải nhìn nhận, so sánh khả năng VBQPPL sẽ có những tác động tích cực hay tiêu cực gì đến những mặt cụ thể nào.
Hoạt động đánh giá tác động của dự thảo VBQPPL có ý nghĩa trong việc hoàn thiện VBQPPL trước khi ban hành. Bởi như đã nói, VBQPPL là loại văn bản được sử dụng trong một thời gian dài, đối tượng điều chỉnh là các quan hệ thuộc nhiều lĩnh vực trong xã hội. Vì vậy, việc đưa ra một VBQPPL hoàn chỉnh cần rất nhiều thời gian và công đoạn. Việc đánh giá tác động của dự thảo văn bản trước khi văn bản đó được ban hành sẽ hạn chế những sai sót, hạn chế của văn bản. Đồng thời, đánh giá tác động của dự thảo VBQPPL còn nâng cao tính chủ động, bảo đảm tính kỷ luật trong công tác xây dựng văn bản pháp luật, đòi hỏi các cơ quan ban hành văn bản pháp luật có trách nhiệm hơn, nghiêm túc hơn trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản sau khi được ban hành đưa vào thực tiễn sử dụng./.
Linh Chi