- Mỗi đội thi bốc thăm 01 tình huống và chuẩn bị trong vòng 30 giây và đưa ra phương án trả lời, thời gian trả lời tối đa là 05 phút. Số điểm tối đa: 15 điểm.
- Câu trả lời phải bao gồm các nội dung: Xác định tranh chấp, mâu thuẫn trong tình huống và vấn đề cần giải quyết; căn cứ pháp luật để giải quyết tình huống; phân tích và giải quyết tình huống, trong đó làm rõ những tình tiết thực hiện đúng PL, những tình tiết sai hoặc vi phạm pháp luật, từ đó nêu hướng giải quyết vụ việc cho mỗi bên.
Chỉ cần dẫn chiếu tên văn bản pháp luật (Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân & Gia đình, Luật Đất đai) điều chỉnh quan hệ được nêu trong tình huống, không nhất thiết phải nhớ tên điều khoản điểm, chỉ cần nêu được tinh thần nội dung của điều luật điều chỉnh trực tiếp tình huống.
- Dưới đây chỉ là các gợi ý giải quyết tình huống, không phải là bài trình bày trên sân khấu, vì vậy, mỗi đội cần tập luyện nội dung trình bày vận dụng các phương pháp nói chuyện vừa mang tính phân tích vừa vận động, thuyết phục trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
Ban Giám khảo khuyến khích, đánh giá cao những cách thể hiện khúc chiết, trôi chảy, phân tích sâu sắc; vận dụng tinh tế các câu ca dao, tục ngữ hoặc các nội dung trình bày dưới dạng thơ ca, văn vần, hò vè, dí dỏm, hài hước; giải quyết tình huống đúng quy định của pháp luật, hợp lý, hợp tình, có khả năng thuyết phục được các bên giải quyết vụ việc một cách tốt đẹp.
- Nếu phát hiện bất cứ vấn đề sai sót hoặc thắc mắc nào, đề nghị các anh/chị phản ánh về Sở Tư pháp, số đt 02103 813684.
- Cơ cấu và nội dung các tình huống:
+ 01 tình huống về xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc.
+ 01 tình huống xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước.
+ 01 tình huống về bảo đảm an toàn trong trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây thiệt hại.
+ 01 tình huống về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên.
+ 01 tình huống về ranh giới và mốc giới ngăn cách các bất động sản.
+ 01 tình huống về quyền về lối đi qua
+ 01 tình huống về quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề
+ 01 tình huống về giao dịch dân sự vô hiệu
+ 01 tình huống về nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải
+ 01 tình huống về hợp đồng dân sự
+ 01 tình huống về trách nhiệm của vợ, chồng và phòng chống bạo lực gia đình
+ 01 tình huống về ngăn cản hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
+ 01 tình huống về mâu thuẫn mẹ chồng, nàng dâu
+ 01 tình huống về quyền thăm nom con sau ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng
+ 01 tình huống về thừa kế.
- Nếu có bất kỳ thắc mắc nào về bộ câu hỏi, đề nghị các ông bà phản ánh về Sở Tư pháp, đt: 02103 813 684.
I. Lĩnh vực dân sự, đất đai, xây dựng, môi trường
Tình huống 1: Gia đình bà An là gia đình thuần nông, ngoài việc canh tác 3 sào ruộng lúa, gia đình bà còn nuôi một đàn vịt để tăng thêm thu nhập. Một hôm, sau khi lùa đàn vịt chăn ở ngoài đồng về nhà, bà An đếm lại và phát hiện có thêm 15 con vịt khác lạc vào đàn vịt nhà bà. Ngay lúc đó, bà An đã đi hỏi các gia đình nuôi vịt gần đó và báo với Ủy ban nhân dân xã nhưng không thấy gia đình nào báo mất vịt. Theo lời cán bộ Ủy ban nhân dân xã, bà An đã nuôi ghép số vịt đó cùng đàn vịt của nhà mình trong thời gian chờ người mất đến nhận vịt.
20 ngày sau, ông Bê nhà ở cuối thôn đến tìm bà An và muốn nhận lại số vịt bị thất lạc và toàn bộ số lượng trứng mà 15 con vịt đã đẻ ra trong quá trình bà nuôi giữ. Bà An không đồng ý trả lại vịt cho ông Bê vì bà cho rằng mình đã tốn công chăm sóc trong 20 ngày vừa qua nên số vịt nói trên phải là của gia đình bà. Không ai chịu nhường ai nên hai bên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã và nặng lời với nhau.
Sau đó ông Bê đã đến nhờ tổ hòa giải giải quyết. Là hòa giải viên giải quyết vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn: Đây là mâu thuẫn giữa ông Bê và bà An trong việc trả lại 15 con vịt bị thất lạc. Ông Bê muốn nhận lại vịt và toàn bộ số lượng trứng mà 15 con vịt đã đẻ ra trong quá trình bà An nuôi giữ. Bà A không đồng ý trả lại vịt.
2. Căn cứ giải quyết
- Căn cứ pháp luật: Điều 232 Bộ luật Dân sự năm 2015 về xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc quy định: "Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia cầm bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia cầm. Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất lạc, người bắt được gia cầm được hưởng hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia cầm".
- Vận dụng truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về tình làng, nghĩa xóm "Bán anh em xa mua láng giềng gần", "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", "Không nên tham của người khác", "Đói cho sạch, rách cho thơm"...
3. Hướng giải quyết
- Bà An phát hiện 15 con vịt lạc vào đàn vịt nhà mình và đã báo cho Ủy ban nhân dân xã để thông báo cho người mất, đồng thời nuôi giữ số vịt nói trên chờ người đến nhận là đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Theo quy định thì phải sau một tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì số vịt nói trên mới thuộc sở hữu của bà An. Tuy nhiên bà An mới chỉ nuôi giữ số vịt này được 20 ngày nên bà An phải trả lại toàn bộ số vịt này cho ông Bê và bà An chỉ được hưởng số trứng mà 15 con vịt đã đẻ trong thời gian nuôi giữ.
Ông Bê chỉ được nhận lại số vịt bị lạc, không được nhận lại số lượng trứng vịt đẻ ra trong thời gian bà An nuôi giữ, đồng thời phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho bà An.
- Khuyên ông B và bà A không nên cãi vã, to tiếng với nhau sẽ làm mất tình đoàn kết giữa hai gia đình và ảnh hưởng đến thôn.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 2: Nhà ông Minh và ông Huân cùng đấu thầu hai đầm sát nhau để nuôi trồng thủy sản. Đầm nhà ông Minh chuyên nuôi tôm, đầm nhà ông Huân chuyên nuôi cá, mọi người trong làng đều biết việc này, tuy nhiên, sau trận mưa rào, nước lụt, tôm từ đầm nhà ông Minh nhảy tràn sang đầm nhà ông Huân. Thấy đầm nhà mình tự dưng rất nhiều tôm, ông Huân đã cất vó, bắt tôm đem bán, ông Minh biết chuyện đã yêu cầu ông Huân trả lại số tôm đã bắt. Ông Huân không đồng ý vì “cá vào ao ai người đó hưởng”, “tôm ở ao ông thì ông bắt” dẫn đến mâu thuẫn, xung đột. Nếu được phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ làm thế nào ?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa nhà ông Minh và ông Huân là do tôm từ đầm nhà ông Minh nhảy tràn sang đầm nhà ông Huân sau trận mưa rào, nước lụt. Ô Huân không thông báo lại còn bắt tôm đem bán. Ông Minh yêu cầu ông Huân trả lại số tôm đã bắt nhưng ông Huân không đồng ý.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước: “Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định của Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị ông Huân phải trả lại số tôm đã bắt do số tôm từ đầm của nhà ông Minh nhảy tràn sang đầm nhà ông Huân vì đầm nhà ông Huân chuyên nuôi cá, đầm nhà ông Minh chuyên nuôi tôm, hai người và mọi người trong làng đều biết điều này.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 3: Nhà ông Minh liền kề với nhà ông Chiến. Gần phần đất giáp ranh giữa hai nhà, ông Minh trồng 02 cây nhãn. Một cây có nhiều lá rụng, đọng lại trên mái nhà và nhiều cành ngả sang đất nhà ông Chiến làm hư hỏng mái ngói. Một cây bị nghiêng, gần bật gốc, có nguy cơ đe dọa đổ vào nhà ông Chiến. Nhiều lần, ông Chiến đề nghị ông Minh chặt các cành vươn sang đất nhà mình và đốn cây nhãn bị nghiêng để tránh cây đổ nhưng ông Minh không đồng ý. Hai bên nhiều lần to tiếng gây căng thẳng, làm mất trật tự khối xóm. Hàng xóm đã nhiều lần khuyên can nhưng không được, xung đột, mâu thuẫn có nguy cơ gia tăng cao. Nếu được phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn do cây Nhãn của nhà ông Minh có nguy cơ bật gốc, đe dọa đổ vào nhà ông Chiến nhưng ông Minh không chịu chặt cây.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 2 Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về ranh giới giữa các bất động sản: “2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
- Khoản 1 Điều 177 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Bảo đảm an toàn trong trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây thiệt hại: “1. Trường hợp cây cối, công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ xuống bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ sở hữu tài sản thực hiện ngay các biện pháp khắc phục, chặt cây, sửa chữa hoặc dỡ bỏ công trình xây dựng đó theo yêu cầu của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nếu không tự nguyện thực hiện thì chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ. Chi phí chặt cây, phá dỡ do chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng chịu.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 tại Khoản 2 Điều 175 quy định về ranh giới giữa các bất động sản và Khoản 1 Điều 177 quy định về Bảo đảm an toàn trong trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây thiệt hại để phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm, thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, không nên to tiếng làm mất trật tự khối xóm. Đề nghị ông Minh chặt các cành cây vươn sang đất nhà ông Chiến và đề nghị chặt ngay cây nhãn có nguy cơ bật gốc để tránh cây đổ sang nhà ông Chiến. Trường hợp ông Minh không đồng ý, ông Chiến có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ. Ông Minh phải chịu chi phí chặt cây.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 4: Một tối đi đường, ông Hòa nhặt được chiếc túi, trong đó có 01 máy tính xách tay, 05 triệu đồng và một số giấy tờ tùy thân của ông Bình nhưng không rõ địa chỉ. Ông Hòa đã liên hệ với cán bộ xã để thông báo cho người bị mất biết đến nhận, đồng thời mang tiền, máy tính về nhà; giao máy tính cho con trai sử dụng, con trai ông đã làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và hỏng máy tính. Ba ngày sau, ông Bình đến nhà ông Hòa xin nhận lại tài sản vì hôm đó do say rượu lên đánh rơi mà không biết. Ông Hòa đồng ý trả lại 5 triệu và giấy tờ tùy thân cho ông Bình, riêng máy tính do đã chập điện và hỏng lên ông Hòa xin ông Bình thứ lỗi và chấp nhận đền bù 03 triệu đồng. Ông Bình không đồng ý vì máy tính đó ông mới mua giá 12 triệu đồng, ít nhất ông Hòa phải bồi thường 8 triệu, do không thống nhất được mức bồi thường nên hai bên đã lời qua tiếng lại gây mâu thuẫn, tranh chấp. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông/bà làm thế nào ?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông Hòa và ông Bình là do con trai ông Hòa đã vô tình làm chập điện và hỏng chiếc máy tính của ông Bình, hai ông không thống nhất được mức bồi thường.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 230 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên:
“1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Điều 230 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Phân tích để ông Bình hiểu rõ việc ông Hòa đã liên hệ với cán bộ xã thông báo cho người bị mất biết và đến nhận là việc làm phù hợp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Đề nghị ông Bình chấp nhận về việc bồi thường chiếc máy đã chập điện và hỏng do ông Hòa nhặt được mặc dù ông đã giao máy tính cho con trai sử dụng là không đúng và ông Hòa đã xin ông Bình thứ lỗi, việc máy tính bị hỏng là do con trai ông vô tình làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và máy tính bị hỏng chứ không phải do ông cố ý thực hiện.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 5: Nhà ông Cường và bà Thủy là hai hộ liền kề, ranh giới giữa hai nhà là hàng cây râm bụt được trồng từ hơn 20 năm nay. Để chuẩn bị tổ chức lễ cưới cho con trai, ông Cường đề nghị cho phá hàng râm bụt để xây tường rào chung, nhưng bà Thủy không đồng ý. Theo bà Thủy, ông Cường muốn xây tường thì cứ xây trên phần đất nhà mình, nếu phá hàng râm bụt sẽ lấn sang phần đất nhà bà. Ông Cường cho rằng hàng râm bụt là ranh giới chung giữa 2 gia đình, việc xây tường rào là vì lợi ích chung nên ông vẫn xây tường, kể cả bà Thủy không đồng ý. Hôm ông Cường xây dựng tường rào, các con bà Thủy đã ngăn cản, không cho tiến hành dẫn đến cãi vã to tiếng và nguy cơ xảy ra xung đột. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông Cường và bà Thủy là tranh chấp ranh giới giữa bất động sản của hai nhà là hàng cây râm bụt được trồng từ hơn 20 năm. Nay ông Cường muốn xây dựng tường rào thay cho hàng râm bụt nhưng bà Thủy không đồng ý.
2. Căn cứ pháp lý: Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định ranh giới giữa các bất động sản như sau:
“1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Điều 176 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về mốc giới ngăn cách các bất động sản
“1. Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.
2. Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thoả thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các chủ thể đó.
Trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thoả thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn phải dỡ bỏ”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Điều 175, 176 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định ranh giới, mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản và truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm. Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần thuyết phục hai bên không nên cãi vã to tiếng và không để xảy ra xung đột, các bên có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung. Cần thuyết phục để bà Thủy hiểu rõ ý nghĩa của bức tường rào: Xây tường rào kiên cố vừa sạch, vừa đẹp, vừa đảm bảo an toàn cho cả hai gia đình việc xây tường rào là vì lợi ích chung; là sở hữu chung của hai gia đình.
Trong trường hợp bà Thủy không đồng ý mà ông Cường vẫn muốn xây tường thì phải xây trên phần đất nhà mình, không được xây trên ranh giới, không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của bà Thủy.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 6: Nhà ông Tý và ông Mão ở cạnh nhau, ông Mão ở trong, ông Tý ở ngoài. Hai hộ sử dụng lối đi chung và đây cũng là lối đi duy nhất vào nhà ông Mão. Tuất (là con ông Mão) thường tụ tập bạn bè ăn nhậu tại nhà vào mỗi chiều tối thứ bảy. Mỗi lần ăn nhậu là một lần ồn ào, náo nhiệt, xe cộ để lộn xộn, ngăn cả lối đi. Ông Tý nhiều lần nhắc nhở Tuất và ông Mão về việc này để không làm ảnh hưởng đến khu xóm, nếu không ông sẽ rào đường, không cho đi chung ngõ nữa. Tuy nhiên, tình trạng không có chuyển biến tích cực, thậm chí Tuất còn thách thức ông Tý. Bực mình, cứ mỗi chiều tối thứ bảy ông Tý kê bàn ghế ra ngõ ngồi uống nước, không cho để xe cộ và làm ảnh hưởng đến việc đi lại của hộ gia đình ông Mão. Mâu thuẫn, xích mích giữa hai hộ ngày càng gia tăng và có biểu hiện phức tạp. Được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa nhà ông Tý và nhà ông Mão là mâu thuẫn về lối đi chung của hai gia đình.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 254 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 quy định về Quyền về lối đi qua: “1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
3. Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Điều 254 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về lối đi qua để phân tích các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Thuyết phục anh Tuất con ông Mão không nên gây ồn ào, để xe cộ không được ngăn cản lối đi chung và không làm ảnh hưởng đến khu xóm. Đồng thời, đề nghị ông Tý không kê bàn ghế ra ngõ, không làm ảnh hưởng đến việc đi lại của hộ gia đình ông Mão vì đây là lối đi chung các bên phải tôn trọng.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 7: Thửa đất nhà ông Tiến bên trong thửa đất nhà bà Cúc. Để thoát nước thải, hộ ông Tiến phải bắc ống dẫn nước qua nhà bà Cúc. Năm nay, bà Cúc phá bỏ ngôi nhà cũ để xây nhà to hơn, bà Cúc yêu cầu ông Tiến chuyển ống dẫn nước sang hướng khác, không đi qua đất nhà bà. Ông Tiến cho rằng đường ống dẫn nước thải hiện nay là tiện nhất, nếu bà Cúc không cho đi qua đất nhà bà thì ông không biết cho nước thải đi đâu. Ông Tiến đề nghị bà Cúc tiếp tục cho phép ông đặt đường ống dẫn nước qua đất nhà bà và để không ảnh hưởng đến ngôi nhà, ông đồng ý sẽ tiến hành di chuyển đường ống sang sát mép tường xây một cách cẩn thận, không để ống dẫn nước gây ảnh hưởng nhưng bà Cúc không đồng ý. Hai bên lời qua tiếng lại, ai cũng giữ quan điểm của mình, sau đó, ông Tiến đã liên hệ với Tổ hòa giải của xóm đề nghị can thiệp, giúp đỡ. Được giao hòa giải vụ việc này, ông/bà sẽ làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông Tiến và bà Cúc là bà Cúc không muốn cho ông Tiến tiếp tục đặt đường ống dẫn nước thải qua đất nhà bà mặc dù đây là đường đi duy nhất.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 252 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề: “Trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy.
Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại.”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Điều 252 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị bà Cúc tiếp tục cho phép ông Tiến đặt đường ống dẫn nước qua đất nhà bà vì đây là đường thoát nước duy nhất và tiến hành di chuyển đường ống sang sát mép tường xây của nhà bà, không để ống dẫn nước hư hỏng làm ảnh hưởng nhà bà Cúc.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 8: Vì muốn có tiền để chơi điện tử, nên cháu Tùng (13 tuổi) đã tự ý bán chiếc xe đạp của mình cho ông Biên - chủ tiệm sửa xe gần trường học với giá 01 triệu đồng. Biết chuyện, bố mẹ Tùng đã tìm gặp ông Biên đề nghị được chuộc lại chiếc xe và hoàn trả ông 01 triệu đồng nhưng ông Biên không đồng ý vì cho rằng việc mua bán giữa ông và Tùng là hoàn toàn tự nguyện, ông không có trách nhiệm phải trả lại chiếc xe. Hai bên lời qua tiếng lại, bố mẹ Tùng đã tìm đến Tổ hòa giải đề nghị giúp đỡ. Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà giải quyết như thế nào?
Gợi ý:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa bố mẹ cháu Tùng và ông Biên là do cháu Tùng (13 tuổi) đã bán chiếc xe đạp mà chưa được sự đồng ý của bố mẹ; bố mẹ Tùng xin chuộc lại xe và hoàn trả lại tiền nhưng ông Biên không chấp nhận.
2. Căn cứ giải quyết
Căn cứ pháp luật: Khoản 3, Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi".
Điểm a, Khoản 1, Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: "Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập" và Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định: "Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu"; Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này ".
Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định: "Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá bằng tiền để hoàn trả. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định".
3. Hướng giải quyết
- Sau khi biết chuyện, hòa giải viên cần phân tích, làm rõ: Cháu Tùng mới 13 tuổi nên chỉ xác lập được các giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Việc mua bán xe giữa ông Biên và cháu Tùng là giao dịch dân sự vô hiệu vì cháu Tùng mới 13 tuổi và giao dịch chưa được sự đồng ý của cha mẹ Tùng. Đồng thời phân tích các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Thuyết phục ông Biên trả lại xe đạp cho cháu Tùng và bố mẹ Tùng phải hoàn lại số tiền mà Tùng đã nhận từ ông Biên.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 9: Tất cả các hộ gia đình tại làng Sung cùng sử dụng nguồn nước sinh hoạt chung tại một con mương dẫn nước từ khúc sông vào. Gia đình anh Thành ở đầu nguồn nhưng thường xuyên xả rác và nước thải xuống nguồn nước chung này. Đại diện cho những hộ gia đình trong làng đã góp ý nhiều lần nhưng gia đình Thành không chịu sửa đổi và còn có những lời nói la mắng, cãi vã to tiếng. Chính vì lẽ đó sự việc được đưa ra tổ hòa giải để giải quyết.
Là hòa giải viên giải quyết vụ việc này, ông (bà) hòa giải vụ việc này như thế nào?
Gợi ý:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Gia đình anh Thành ở đầu nguồn nước nhưng thường xuyên xả rác và nước thải xuống nguồn nước, mọi người góp ý nhiều nhưng không chịu sửa đổi lại còn to tiếng.
2. Căn cứ giải quyết
Căn cứ pháp luật: Điều 251 Bộ luật Dân sự năm 2015 về nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải quy định: "Chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát nước để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy tràn sang bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi sinh hoạt công cộng".
Khoản 1 Điều 9 Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định: "Nghiêm cấm đổ chất thải, rác thải, đổ hoặc làm rò rỉ các chất độc hại vào nguồn nước và các hành vi khác gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước" và Khoản 5 Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định: "Nghiêm cấm thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí".
- Vận dụng các câu ca dao, tục ngữ về tình nghĩa làng xóm, láng giềng: "Bán anh em xa, mua láng giềng gần"; "Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau".
3. Hướng giải quyết
Việc giữ gìn vệ sinh nguồn nước, sử dụng nước sông là tập quán lâu đời của người dân vùng sông nước. Mặt khác, hành vi của anh Thành đã được các hộ gia đình góp ý nhiều lần nhưng vẫn cố tình tái diễn và có những lời nói la mắng, cãi vã to tiếng đối với người đã góp ý chính đáng cho mình là những hành vi hoàn toàn sai.
Anh Thành cần phải xin lỗi công khai các hộ gia đình trong làng và chấm dứt ngay việc xả rác và nước thải xuống nguồn nước chung, nếu còn tái diễn căn cứ vào mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật.
Tình huống 10: Ông An ký hợp đồng với ông Bình (chủ vườn nhãn) với nội dung sẽ thu mua toàn bộ quả nhãn trong vườn của ông Bình trong vụ thu hoạch năm nay với giá 100 triệu đồng. Để bảo đảm thực hiện hợp đồng, ông An đã đặt cọc trước cho ông Bình 20 triệu đồng (có giấy biên nhận). Đến kỳ thu hoạch, do giá quả nhãn lên cao hơn mọi năm, ông Bình đề nghị nâng giá trị của hợp đồng lên 120 triệu đồng thì ông mới bán, nếu không, ông sẽ trả lại 20 triệu tiền đặt cọc và đơn phương chấm dứt hợp đồng đã ký. Ông An không đồng ý và yêu cầu ông Bình thực hiện đúng cam kết vì hợp đồng đã ký, giá cả đã được thống nhất, việc đặt cọc đã xong. Nếu ông Bình không thực hiện đúng hợp đồng thì phải trả lại tiền đặt cọc, chịu phạt cọc và bồi thường thiệt hại. Ông Bình tuyên bố đơn phương chấm dứt hợp đồng, yêu cầu ông An đến nhận lại 20 triệu tiền đặt cọc và không trả tiền phạt cọc cũng không bồi thường thiệt hại. Ông An đã tìm đến Tổ hòa giải đề nghị giúp đỡ. Được phân công hòa giải vụ việc, ông/bà làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Ông Bình đòi nâng giá trị hợp đồng mua bán hoa quả, ông An không đồng ý và yêu cầu ông Bình trả lại tiền đặt cọc, chịu phạt cọc và bồi thường thiệt hại nhưng ông Bình chỉ chấp nhận trả lại tiền đặt cọc.
2. Căn cứ pháp lý:
Theo Khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đặt cọc như sau :“Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đặt cọc. Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện hợp đồng để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó, đảm bảo quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai gia đình.
- Thuyết phục ông An xem xét, hỗ trợ cho ông Bình một phần giá trị do giá hoa quả năm nay tăng cao hơn so với mọi năm.
Thuyết phục ông Bình thực hiện hợp đồng như ban đầu đã ký kết, đồng thời phân tích để ông Bình thấy rõ nếu như giá hoa quả năm nay thấp hơn mọi năm thì ông có thay đổi hợp đồng hay không.
Nếu ông An không đồng ý hỗ trợ và ông Bình cũng không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng thì ông Bình phải trả lại cho ông An 20 triệu tiền đặt cọc và chịu phạt cọc 20 triệu nữa, đồng thời phải bồi thường thiệt hại nếu trong hợp đồng đã có thỏa thuận về nội dung này.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
II. Lĩnh vực hôn nhân và gia đình, phòng chống bạo lực gia đình, bảo đảm bình đẳng giới
Tình huống 11: Chị Huệ làm công tác xã hội nên thường xuyên đi sớm về muộn, vì vậy, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh Tài, chồng chị Huệ tỏ ra khó chịu, thường mắng chửi vợ, lại còn trêu tức vợ bằng cách thỉnh thoảng chơi đề đóm, theo bạn bè uống rượu bê tha, bỏ bê việc gia đình trong những lúc chị Huệ phải đi công tác. Chị Huệ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau, có lúc anh Tài còn thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với chị Huệ.
Sự việc trên được đưa đến tổ hòa giải. Là hòa giải viên chịu trách nhiệm hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?
Gợi ý:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa vợ chồng anh Tài, chị Huệ là chị Huệ làm công tác xã hội, thường xuyên đi sớm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình, con cái; Anh Tài không chia sẻ với vợ, còn chơi lô đề, rượu chè bê tha dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, đánh nhau.
2. Căn cứ giải quyết
- Căn cứ pháp luật: Điều 23 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội"; Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình..." và Điều 21 quy định: "Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau".
- Vận dụng câu ca dao: "Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê"; Cờ bạc là bác thằng Bần, ...
3. Hướng giải quyết:
- Phân tích đối với anh Tài: Anh Tài mắng chửi, đánh đập chị Huệ là vi phạm quy định của Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chơi đánh đề là sai, không những gây thiệt hại cho kinh tế gia đình vốn đã khó khăn mà còn là hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến trật tự trị an của xã hội, sẽ bị xử phạt hành chính, nếu tiếp tục vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
Chị Huệ về muộn là do công việc của cơ quan và khuyên anh Tài với tư cách là một người chồng, người trụ cột trong gia đình nên thông cảm cho công việc của vợ, giúp đỡ vợ trong công việc gia đình, tạo điều kiện, động viên để vợ tiến bộ trong công tác. Bên cạnh đó, với trách nhiệm của một người chồng anh phải biết yêu thương, tôn trọng vợ. Là người chồng, một người cha, anh Tài phải là trụ cột trong gia đình, là tấm gương để con cái học tập, noi theo. Nếu tiếp tục tình trạng này sẽ làm cho tình cảm vợ chồng, cha con bị tổn thương, nhiều hệ lụy xảy ra, dễ dẫn đến ly hôn, khi đó hai con của anh sẽ chịu nhiều thiệt thòi nhất.
- Phân tích đối với chị Huệ: Với trách nhiệm của một người vợ, người mẹ, chị Huệ hãy cố gắng thu xếp hợp lý cả việc xã hội, việc cơ quan và việc gia đình để có thời gian chăm sóc chồng con, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhắc nhở chị Huệ khuyên nhủ, thuyết phục chồng là đúng nhưng cần phải gần gũi, phân tích nhẹ nhàng, kiên nhẫn, biết kìm chế nóng giận, không nên chì chiết, mắng chửi chồng. Ngoài ra, chị Huệ có thể nhờ các con và người thân, họ hàng hai bên gia đình để có biện pháp tác động, nhắc nhở, động viên, giúp đỡ chồng.
Tình huống 12: Sau một thời gian tìm hiểu, anh Hải và chị Khuyên đã quyết định xin phép gia đình hai bên cho họ kết hôn với nhau. Song do trước đây, bà Hồng - mẹ anh Hải có mâu thuẫn với mẹ chị Khuyên (đã chết) nên cương quyết không cho anh Hải cưới chị Khuyên. Tuy vậy, hai người vẫn quyết tâm đến với nhau và đã đến Ủy ban nhân dân xã đề nghị làm thủ tục đăng ký kết hôn. Bà Hồng biết chuyện, đã đến Ủy ban nhân dân xã nơi hai anh chị đang đăng ký kết hôn mắng chửi chị Khuyên và dọa sẽ chết nếu anh Hải cương quyết đăng ký kết hôn với chị Khuyên. Anh Hải đã phải hoãn ngày đăng ký kết hôn và đến nhờ Tổ hòa giải thuyết phục mẹ mình.
Ông (bà) hãy nêu căn cứ pháp luật điều chỉnh và cách giải quyết vụ việc này?
Gợi ý:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Bà Hồng cương quyết không cho anh Hải cưới chị Khuyên vì bà Hồng có mâu thuẫn với mẹ chị Khuyên trong quá khứ. Anh Hải đã phải hoãn ngày đăng ký kết hôn.
2. Căn cứ giải quyết
- Căn cứ pháp luật: Điểm b Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "... Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định...", Điểm b Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "...Cấm hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn...". Điều 181 Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm”. Hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 155 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
- Vận dụng câu "Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên".
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và Bộ Luật Hình sự năm 2015 nêu trên, hòa giải viên cần phân tích để bà Hồng hiểu việc bà gặp chị Khuyên mắng chửi và bằng các hành động để cản trở hôn nhân của con trai bà với chị Khuyên là trái với quy định của pháp luật. Dựa trên tình mẫu tử, hạnh phúc của con cái cũng là hạnh phúc của người làm cha làm mẹ. Bố mẹ phải có trách nhiệm lo cho hạnh phúc của con cái. Hơn nữa, chị Khuyên là người hiền thảo, chăm làm, chắc sẽ là một người vợ đảm, nàng dâu ngoan, bà nên tạo điều kiện để con bà có hạnh phúc chứ không nên cấm đoán, cản trở hôn nhân của con chỉ vì mâu thuẫn cá nhân của mình trong quá khứ. Hành động của bà là trái với đạo lý. Mặt khác, mẹ chị Khuyên đã chết, việc cố chấp với người quá cố là không nên. Hòa giải viên còn vận dụng quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình để giải thích cho bà hiểu anh Hải và chị Khuyên kết hôn là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật.
Nếu bà cứ tiếp tục cản trở hôn nhân của anh Hải thì bà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi mắng chửi, xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm chị Khuyên của bà Hồng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác.
- Về phía anh Hải: Khuyên anh mặc dù việc làm của mẹ anh là sai, nhưng anh cũng phải bình tĩnh, không nên nóng vội, lựa những thời điểm thích hợp để giải thích, thuyết phục mẹ anh, hoặc có thể nhờ họ hàng, cô bác thuyết phục mẹ giúp mình.
- Về phía chị Khuyên: Động viên chị không vì những hành động sai trái của bà Hồng mà buồn tủi, cố gắng động viên anh Hải thuyết phục mẹ để cùng nhau xây dựng hạnh phúc bằng tình yêu chân chính của mình.
Tình huống 13: Bà Lâm đã nhiều năm mâu thuẫn, xích mích với con dâu, thực ra cũng chỉ bởi kinh tế gia đình khó khăn, nhà cửa chật hẹp và xuất phát từ những chuyện lặt vặt trong gia đình, bà Lâm thì khó tính, hay để ý, khắt khe với con dâu, con dâu bà Lâm thì hay nói năng thiếu lễ phép với mẹ chồng. Ban đầu chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhưng về sau ngày càng gay gắt, đỉnh điểm bà Lâm đã đuổi con dâu ra khỏi nhà và bắt con trai bà phải bỏ vợ, nếu không bỏ bà sẽ từ mặt cả con trai. Để giải quyết êm đẹp chuyện gia đình, con trai bà Lâm đã đến nhờ Tổ hòa giải giúp đỡ.
Ông (bà) giải quyết vụ việc này như thế nào?
Gợi ý:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
2. Căn cứ giải quyết:
- Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Cấm cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn...”.
- Điều 181 Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm”.
- Khoản 2 Điều 70 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình".
- Khoản 1, Khoản 2 Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Các thành viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau. Quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản của các thành viên gia đình theo quy định; Trong trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình".
3. Hướng giải quyết
- Trước hết, hòa giải viên cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân mâu thuẫn sâu xa, trong đó cần phân tích làm rõ giữa hai mẹ con không có mẫu thuẫn gì lớn mà chủ yếu là xuất phát từ va chạm trong cuộc sống hàng ngày, từ ý tứ, lời ăn tiếng nói. Do không được giải quyết ngay nên lâu dần tích tụ thành định kiến giữa mẹ chồng nàng dâu, tạo ra mâu thuẫn “giọt nước tràn ly”.
- Sau đó, hòa giải viên gặp gỡ từng bên, phân tích, thuyết phục các bên hiểu rõ điều hay, lẽ phải:
Đối với bà Lâm: Việc bà đã đuổi con dâu ra khỏi nhà và bắt con trai bà phải bỏ vợ là việc làm vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình và trái với đạo đức xã hội. Là mẹ chồng bà nên coi con dâu như con đẻ của mình, các cụ ta vẫn thường nói "dâu con, rể khách". Bà cũng đã từng làm dâu nên hơn ai hết bà nên thông cảm và hiểu cho con dâu của mình còn "trẻ người non dạ", bà nên vị tha, độ lượng, không nên cay nghiệt, khắt khe với con dâu, con dâu có điều gì không phải thì nhẹ nhàng dạy bảo, chắc chắn con dâu bà sẽ nhận ra cái sai của mình mà tự sửa chữa, cuộc sống gia đình sẽ thoải mái, vui vẻ và con trai bà cũng sẽ không phải đau khổ, khó xử vì mâu thuẫn giữa mẹ và vợ mình.
Về phía cô con dâu bà Lâm: Nếu mẹ chồng có thái độ hoặc lời nói không đúng thì lựa lúc mẹ chồng vui vẻ cô giải thích để mẹ chồng hiểu và thông cảm. Phân tích cho cô thấy việc cô cư xử thiếu lễ phép với mẹ chồng là sai. Là phận con, cô phải có bổn phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ đẻ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Cô phải hiểu rằng nếu như không có cha mẹ chồng thì làm sao có chồng và các con của mình, "mẹ sinh ra anh để bây giờ cho em".
Đồng thời áp dụng các quy định của pháp luật để giải thích cho hai mẹ con. Cuộc sống gia đình đã khó khăn, mọi người trong gia đình càng cần phải yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ nhau nhiều hơn, bớt đi nỗi vất vả, cực nhọc, cùng nhau vun đắp xây dựng cuộc sống gia đình.
Tình huống 14: Theo Quyết định của Tòa án, sau khi ly hôn, chị Bé là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bình - con gái của chị và anh An. Còn anh An có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con với mức tiền 2.000.000đ/tháng. Trước năm 2016, trách nhiệm cấp dưỡng đã được anh An thực hiện đầy đủ. Nhưng từ tháng 01/2016 đến nay, anh An chỉ chu cấp 1.000.000đ/tháng với lý do mới tái hôn, phải lo toan cho gia đình mới. Chị Bé không đồng ý với mức cấp dưỡng này, nhiều lần chị đã yêu cầu anh An phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo đúng phán quyết của Tòa án, nếu không chị sẽ không cho anh An gặp con. Vì thế, giữa hai người đã nảy sinh mâu thuẫn.
Nếu được giao hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa anh An và chị Bé là do anh An không chuyển đủ mức tiền cấp dưỡng nuôi con hàng tháng sau ly hôn theo phán quyết của Tòa án. Chị Bé đã nhiều lần yêu cầu anh An thực hiện đúng trách nhiệm của mình, nếu không chị sẽ không cho anh An gặp con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai người.
2. Căn cứ pháp lý:
- Khoản 2, Khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân & gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”.
- Điều 83 Luật Hôn nhân & gia đình quy định: “ Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định đối với con; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”
- Hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng trong khi có đủ điều kiện thực tế để thực hiện nghĩa vụ gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 186 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các quy của Luật Hôn nhân & gia đình nêu trên, phân tích cho anh An hiểu: anh có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con anh đúng theo quyết định của Tòa án; nếu anh trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đưa đến những hậu quả nghiêm trọng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Phân tích cho chị Bé hiểu: chị có quyền yêu cầu anh An cấp dưỡng cho cháu Bình hàng tháng đúng mức tiền Tòa án quyết định nhưng chị không có quyền cản trở anh An trong việc thăm nom con.
- Thuyết phục hai bên vì lợi ích của con có thể thỏa thuận cùng nhau thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của mình với cháu Bình đảm bảo cho cháu có cuộc sống vật chất và tinh thần tốt nhất có thể.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 15: Bà Mận là hàng xóm, láng giềng thân thiết của bà Đô. Để hỗ trợ người con trai duy nhất xây nhà mới, bà Mận đã vay 02 cây vàng của bà Đô, với thời hạn vay là 06 tháng, có giấy viết tay của bà Mận. Con trai của bà Mận biết rất rõ việc này. Ba tháng sau, do bị cảm, bà Mận đột ngột qua đời. Đến thời hạn trả nợ, bà Đô đã yêu cầu con trai bà Mận trả bà 02 cây vàng đó nhưng con trai bà Mận không trả với lý do là mẹ anh vay chứ anh không vay, anh không có nghĩa vụ phải trả nợ thay. Sau nhiều lần đòi không được, bà Đô đã tìm đến Tổ hòa giải đề nghị giúp đỡ. Là hòa giải viên, ông (bà) sẽ hòa giải vụ, việc trên như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Bà Mận vay của bà Đô 02 cây vàng để hỗ trợ con trai làm nhà. Sau đó bà Mận đột ngột qua đời mà chưa trả được nợ cho bà Đô. Bà Đô yêu cầu con trai bà Mận trả nợ nhưng anh ta không đồng ý vì việc vay vàng là do mẹ anh làm.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”
- Khoản 1, Khoản 2 Điều 466 về nghĩa vụ trả nợ của bên vay quy định: “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý”
- Khoản 1, Điều 615 Bộ luật quy định: “ Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
3. Hướng dẫn giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên, hòa giải viên phân tích để con trai bà Mận hiểu việc mẹ anh vay vàng của bà Đô đến hạn trả nhưng mẹ anh đột ngột qua đời, là con trai duy nhất anh đương nhiên được hưởng thừa kế do mẹ anh để lại. Vì vậy, xét trên căn cứ pháp luật, anh có nghĩa vụ trả nợ số vàng mẹ anh vay. Xét về ý nghĩa tâm linh, anh nên thực hiện nốt nghĩa vụ của mẹ để mẹ anh được yên nghỉ. Hơn nữa, bà Đô là hàng xóm thân thiết của gia đình, có lòng tốt giúp đỡ gia đình anh khi anh có việc lớn, vì vậy, lòng tốt của bà Đô nên được gia đình anh đáp lại bằng những hành động mang tính chất biết ơn và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Nếu chưa có điều kiện trả nợ thì phải xin bà Đô hoãn nợ cho một thời gian nữa.
- Thuyết phục bà Đô: nếu con trai bà Mận còn đang gặp khó khăn, chưa có điều kiện trả nợ có thể kéo dài thêm thời gian để con trai bà Mận sắp xếp, để giữ mãi tình làng nghĩa xóm.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
SỞ TƯ PHÁP
Bộ câu hỏi tình huống (4.7).doc