1. A và B cùng đến thuê nhà trọ của C. A đề nghị C cho mình thuê nhà với giá rẻ vì A là người dân tộc thiểu số của một huyện nghèo tỉnh Hà Giang nên được ưu tiên. C không đồng ý và cho B thuê với giá cao hơn của A. Xin hỏi, C quyết định như vậy có vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự không?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 thì các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự bao gồm:
1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
Đối chiếu với các quy định trên thì bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Theo đó, trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau. Vì vậy, quyết định của C là đúng pháp luật, không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
2. Đồng bào dân tộc Mường ở Hoà Bình có truyền thống tổ chức lễ hội sau khi đã thu hoạch xong vụ mùa hàng năm. Trong lễ hội của người Mường, không thể thiếu tiếng cồng (chiêng). Vào ngày lễ hội, ông X cho ông Y mượn chiêng để sử dụng. Sau lễ hội, ông Y mang chiêng trả cho ông X. Ông X không ở nhà, ông Y tự mang chiêng vào trong nhà ông X và treo lên chỗ để chiêng. Hai ngày sau, ông X yêu cầu ông Y phải bồi thường thiệt hại do khi ông Y sử dụng đã làm mặt chiêng bị nứt, nhưng ông Y không chấp nhận yêu cầu của ông X. Xin hỏi, trường hợp này có thể áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp không?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.
Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Đối chiếu với quy định trên thì trường hợp này thiếu căn cứ pháp luật để ông A yêu cầu ông B bồi thường, vì khi chuyển giao chiêng cho ông B, các bên không có bất kỳ văn bản nào xác định thực trạng của chiêng. Tuy nhiên, theo tập quán của người Mường (Hòa Bình) thì khi mượn chiêng, cả bên cho mượn và bên mượn phải mang chiêng ra trước cửa hoặc sân của chủ cho mượn, chủ của chiêng gõ chiêng một hồi ba tiếng hoặc ba hồi chín tiếng và tiếng chiêng ngân lên ở tần số cao nhất. Nếu các bên hoặc một bên sau khi nghe xong hồi chiêng mà không cảm thấy chiêng bị rè do bị vỡ, bị nứt thì việc chuyển giao chiêng bình thường. Ngược lại, khi bên mượn chiêng trả lại chiêng thì cũng phải làm thủ tục tương tự như khi mượn, là gõ một hồi ba tiếng hoặc ba hồi chín tiếng để mọi người cùng nghe xem tiếng chiêng có bị rè hoặc khác biệt so với khi mượn không.[1] Như vậy, tập quán này đã được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong cộng đồng dân tộc Mường ở Hòa Bình, đồng thời tập quán này không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Do đó, căn cứ vào tập quán trên, ông B khi trả chiêng đã không thực hiện nghi thức theo tập quán, do vậy chiêng bị rè, nứt vỡ là do ông B trong khi sử dụng đã làm hư hỏng, theo đó ông B có trách nhiệm phải bồi thường cho ông A.
3. Xin cho biết Nhà nước có chính sách gì đối với quan hệ dân sự?
Trả lời: Theo Từ điển tiếng Việt“chính sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…”
Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự cũng như truyền thống văn hóa dân tộc, Nhà nước có các chính sách sau đối với quan hệ dân sự (Điều 7 Bộ luật dân sự năm 2015):
Thứ nhất, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Thứ hai, trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Đây là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp quốc và thường được các nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật, bởi lẽ, hòa giải có ý nghĩa lớn, làm cho những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn, xích mích được giập tắt hoặc không vượt qua giới hạn sự nghiêm trọng, giúp cho các bên tránh được một sự xung đột hoặc bạo lực. Giúp các bên hiểu biết lẫn nhau, giữ gìn cục diện ổn định…
4. A cho B vay 10 triệu đồng với thời hạn 02 tháng và không có lãi. Sau 02 tháng, A đòi nhưng B không chịu trả tiền cho A. Vậy xin hỏi trong trường hợp này thì pháp luật có quy định gì để bảo vệ những người có tình huống như của A ?
Trả lời: Để thống nhất trong điều chỉnh pháp luật về phương thức bảo vệ quyền và để tạo cơ chế pháp lý cho cá nhân, pháp nhân lựa chọn phương thức bảo vệ quyền dân sự, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể, khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện các biện pháp sau:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
5. Buộc bồi thường thiệt hại.
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
7. Yêu cầu khác theo quy định của luật.
Trường hợp cá nhân, pháp nhân lựa chọn phương thức tự bảo vệ quyền dân sự thì việc tự bảo vệ quyền phải phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền dân sự đó và không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Đối chiếu với các quy định trên thì A có quyền buộc B thực hiện nghĩa vụ trả tiền, nếu việc chậm trả tiền của B gây thiệt hại cho A thì A còn có quyền yêu cầu B bồi thường thiệt hại cho mình.
5.Vợ chồng chị A sinh được em bé tên là H được 20 ngày tuổi thì bố chồng chị A mất. Trước khi mất ông nội có viết di chúc để lại cho cháu B một phần tài sản của mình là một mảnh đất 150m2 mặt phố tại HN. Tuy nhiên, các thành viên trong gia đình không đồng ý với việc chia thừa kế này và cho rằng cháu H còn quá nhỏ, chưa có năng lực pháp luật dân sự. Vậy, vợ chồng chị A muốn biết bé H con của họ 20 ngày tuổi theo quy định pháp luật thì có năng lực hành vi dân sự hay chưa?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 16, 17, 18 Bộ luật dân sự năm 2015 thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có những nội dung sau:
1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật dân sự năm 2015, luật khác có liên quan quy định khác.
Đối chiếu với quy định trên thì ngay khi H sinh ra H đã có năng lực pháp luật dân sự, năng lực pháp luật dân sự của H chỉ bị hạn chế khi Bộ luật dân sự năm 2015 hoặc luật khác có liên quan quy định khác và chấm dứt khi H chết.
6. Xin cho hỏi năng lực hành vi dân sự của cá nhân là gì?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015 thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự; có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Bộ luật dân sự năm 2015.
7. Cháu A 10 tuổi muốn mua một chiếc điện thoại di động bằng tiền tiết kiệm của A nhưng bố mẹ cháu không đồng ý. Xin hỏi, nếu A giấu bố mẹ, tự ý đi mua điện thoại thì giao dịch mua bán điện thoại đó có được công nhận không?
Trả lời: Khoản 3 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Điều này có nghĩa là người từ đủ 6 tuổi trở lên chỉ được tham gia thực hiện các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của cháu. Trường hợp bạn hỏi cháu A 10 tuổi thực hiện giao dịch mua bán điện thoại thì không phải là phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và không phù hợp với lứa tuổi của cháu nên không được pháp luật công nhận. Các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày có thể được hiểu là các giao dịch có giá trị nhỏ, thực hiện tức thời với mục đích là để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, học tập, vui chơi hàng ngày trong cuộc sống.
8. Vợ chồng tôi có con trai 16 tuổi. Chúng tôi dự định sẽ cho cháu một số tiền bằng cách mua nhà để cháu đứng tên trong hợp đồng mua bán nhà và trong giấy chứng nhận quyền sở hữu. Tuy nhiên, vợ chồng tôi đang băn khoăn cháu vẫn là người chưa thành niên thì có đứng tên trong giao dịch mua nhà được không?
Trả lời: Khoản 4 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Như vậy, trường hợp này, con của anh chị đã 16 tuổi, được anh chị cho tiền và số tiền đó đủ để mua nhà thì cháu có quyền tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng mua bán nhà. Từ hợp đồng mua bán nhà sau khi đã được công chứng, cháu phải tiến hành thủ tục trước bạ và đăng ký cấp Giấy chứng nhận mang tên của cháu theo đúng quy định của pháp luật.
9. Sau khi bị tai nạn lao động, A có biểu hiện bệnh lý hoang tưởng, luôn nghĩ rằng gia đình hàng xóm đang chửi rủa, hãm hại làm người nhà mình đau ốm và theo kết quả giám định tại Trung tâm Giám định Pháp y tâm thần thành phố Hồ Chí Minh thì A bị tâm thần phân liệt. Để hạn chế những rắc rối của A gây ra, bố mẹ của A muốn đề nghị Tòa án tuyên bố A bị mất năng lực hành vi dân sự có được không?
Trả lời: Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:
Xin xem tiếp trong tệp đính kèm./.